
Bộ Xây dựng vừa ban hành Thông tư số 13/2024/TT-BXD ngày 20/12/2024 về quy trình, quy định kỹ thuật kiểm kê khí nhà kính (KNK) và đo đạc, báo cáo, thẩm định giảm nhẹ phát thải KNK ngành Xây dựng. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 05/02/2025.
Kết hợp sử dụng số liệu từ nhiều nguồn đối với lĩnh vực
Thông tư số 13/2024/TT-BXD quy định cụ thể việc kiểm kê KNK cấp lĩnh vực và kiểm kê KNK cấp cơ sở.
Trong đó, nhằm xác định phạm vi kiểm kê KNK cấp lĩnh vực, thực hiện kiểm kê KNK các nhóm hoạt động như: (1) Quá trình công nghiệp trong sản xuất VLXD (xi măng, vôi, kính xây dựng và VLXD khác); (2) Tiêu thụ năng lượng trong xây dựng (sản xuất VLXD và toà nhà).
Nguồn phát thải KNK từ quá trình công nghiệp trong sản xuất VLXD bao gồm phát thải từ quá trình nung nguyên liệu có chứa gốc cacbonat (-CO3). Nguồn phát thải từ tiêu thụ năng lượng trong xây dựng bao gồm phát thải từ sử dụng nhiên liệu cho quá trình đốt nhiên liệu và sử dụng điện.
Thời gian thu thập số liệu hoạt động: từ ngày 01/01 - 31/12 của kỳ kiểm kê. Loại KNK được kiểm kê: CO2, CH4, N2O.
Đáng chú ý, việc xác định phương pháp thu thập số liệu hoạt động phục vụ kiểm kê KNK cấp lĩnh vực được quy định theo hướng mở, có thể thu thập số liệu hoạt động, tính toán theo một trong 03 cách:
(1) Từ trên xuống: Số liệu hoạt động của nguồn phát thải được tổng hợp từ số liệu thống kê và khảo sát của ngành, tính toán theo quy định của Thông tư;
(2) Từ dưới lên: Số liệu hoạt động của nguồn phát thải được tổng hợp từ số liệu khảo sát, báo cáo hoạt động của tất cả các cơ sở thuộc phạm vi ngành, tính toán theo quy định của Thông tư;
(3) Kết hợp: Số liệu hoạt động của nguồn phát thải được tổng hợp từ số liệu thống kê, khảo sát ngành và cơ sở, tính toán theo quy định phù hợp với số liệu tổng hợp được.
Theo một chuyên gia của Vụ KHCN&MT, việc kiểm kê KNK cấp lĩnh vực được quy định theo hướng mở là có thể sử dụng các số liệu từ niên giám thống kê để lấy số liệu chung của lĩnh vực hoặc có thể làm theo nhiều phương pháp, sử dụng phương pháp nào thì tự công bố trong báo cáo kiểm kê KNK của doanh nghiệp. Theo đó, đối với cấp lĩnh vực, một phần có thể lấy từ số liệu kiểm kê, thống kê của các địa phương, quốc gia; một phần lấy số liệu từ việc khảo sát, thu thập số liệu của doanh nghiệp; từ đó tính toán, xác định, lựa chọn thông tin chính xác nhất. Bởi vì, nếu lấy con số từ niên giám thống kê nhân với hệ số phát thải thì độ chính xác không cao, bên cạnh đó, phương pháp mở này đang được chấp nhận bởi Ủy ban liên chính phủ về BĐKH (IPCC), do đó Thông tư của Bộ Xây dựng cũng cho phép làm theo hướng mở này.
Thu thập số liệu từ đo đạc đối với cấp cơ sở
Nhằm xác định phạm vi kiểm kê KNK cấp cơ sở, việc kiểm kê KNK được thực hiện với các nguồn phát thải như: (1) Cơ sở sản xuất VLXD: Phát thải từ sử dụng nhiên liệu cho quá trình đốt, từ sử dụng điện mua vào và từ nung nguyên liệu có chứa gốc cacbonat (-CO3); (2) Toà nhà: Phát thải từ sử dụng nhiên liệu cho quá trình đốt, từ sử dụng điện mua vào và từ sử dụng thiết bị làm mát (điều hoà, tủ lạnh, tủ đông, chiller, bơm nhiệt…).
Ranh giới và phạm vi hoạt động của cơ sở: Tọa độ địa lý hành chính của cơ sở. Thời gian thu thập số liệu hoạt động: từ ngày 01/01 - 31/12 của kỳ kiểm kê. Loại KNK được kiểm kê: CO2, CH4, N2O.
Các cơ sở thực hiện thu thập số liệu hoạt động theo phương pháp như: (1) Đo đạc, phân tích, tính toán thực tế tại doanh nghiệp; (2) Đo đạc, phân tích, tính toán của nhà cung cấp nguyên vật liệu.
Theo Quyết định số 13/2024/QĐ-TTg ngày 13/8/2024 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải KNK phải thực hiện kiểm kê KNK (cập nhật), ngành Xây dựng có tổng số 229 cơ sở phải thực hiện kiểm kê KNK, trong đó có 80 doanh nghiệp sản xuất xi măng, 26 tòa nhà thương mại và 123 doanh nghiệp sản xuất VLXD khác. Những cơ sở phải thực hiện kiểm kê KNK là các cơ sở phát thải trên 3.000 tấn CO2 tương đương/năm, hoặc là tổng tiêu thụ năng lượng trên 1.000 TOE/năm.
Theo điểm b khoản 4 Điều 11 Nghị định số 06/2022/NĐ-CP, việc kiểm kê KNK cấp cơ sở phải được thực hiện định kỳ theo năm chẵn, thực hiện 2 năm/lần và bắt buộc phải gửi UBND cấp tỉnh trước ngày 31/3 kể từ năm 2025 để thẩm định.
Theo Nghị định số 06/2022/NĐ-CP của Chính phủ, ngành Xây dựng sẽ phải giảm tối thiểu 74,3 triệu tấn CO2 tương đương đến năm 2023, được hiểu là tính cộng dồn các năm trong giai đoạn từ năm 2021-2030.
Bộ Xây dựng đang căn cứ vào Nghị định số 06/2022/NĐ-CP thực hiện xây dựng kế hoạch giảm phát thải KNK của ngành dựa trên mức tối thiểu là 74,3 triệu tấn CO2 tương đương. Theo tính toán của Viện VLXD, con số mà ngành Xây dựng giảm được có thể lên đến khoảng 100 triệu tấn CO2 tương đương khi chưa có sự hỗ trợ của quốc tế.