

“Cần biết nuối tiếc để mơ tới tương lai”
♦ Thưa GS.TS.KTS Doãn Minh Khôi! Xin ông đánh giá khái quát về các chính sách quản lý của chúng ta trong công tác bảo tồn di sản văn hóa, đặc biệt là các di sản kiến trúc đô thị?
- Trước hết phải nói là Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm đến công tác bảo tồn di sản văn hoá, điều này được thể hiện rõ qua các Hội nghị Trung ương. Nhờ vậy, di sản - tài sản quý giá của cha ông để lại - cơ bản đã được bảo tồn và phát huy giá trị, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội bền vững của đất nước, gây dựng thương hiệu và khẳng định vị thế quốc gia.
Đặc biệt, trong buổi gặp mặt của Tổng Bí thư Tô Lâm với đại biểu văn nghệ sĩ cả nước chiều 30/12/2024, chúng tôi được lắng nghe Tổng Bí thư truyền đạt vai trò của văn hóa, trong đó nhấn mạnh, ngay từ khi đất nước chưa giành được độc lập, vào năm 1943, Bác Hồ đã đặt ra Đề cương về văn hóa. Đó là sự khẳng định văn hóa là yếu tố đầu tiên và quan trọng trong xây dựng và bảo vệ đất nước.
Hơn nữa, chúng ta đã có Luật Di sản văn hóa từ năm 2001, vừa được sửa đổi tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV, là hành lang pháp lý quan trọng để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ, phát huy các giá trị di sản văn hóa; tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của nhân dân trong việc tham gia bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Trong Luật Di sản văn hóa có nhấn mạnh hai đối tượng cần bảo tồn: Các di tích lịch sử và Danh lam thắng cảnh. Đó là hai đối tượng quan trọng liên quan đến di sản kiến trúc đô thị, mà khi làm quy hoạch bị tác động mạnh mẽ nhất.
Năm 2010, Việt Nam có Nghị định 98/2010/NĐ-CP của Chính phủ về quy định chi tiết hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa. Trong đó Điều 3 của Nghị định đề cập rõ 6 vấn đề trong quản lý di sản kiến trúc đô thị, trong đó tôi đánh giá 3 nội dung có ý nghĩa quan trọng trong chính sách quản lý di sản kiến trúc đô thị. Đó là: Nghiên cứu áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ trong bảo tồn di sản; Đào tạo và bồi dưỡng các cán bộ trong quản lý bảo tồn (hiện nay chúng ta đang rất thiếu); Mở rộng hợp tác quốc tế trong bảo tồn di sản.
Như vậy, các chính sách của Nhà nước về quản lý di sản kiến trúc đô thị cơ bản đã rất tích cực, nhưng chưa đủ.
♦ Ông có thể nói kỹ hơn yếu tố chưa đủ ở đây là gì?
- Chưa đủ ở đây là yếu tố nhận thức của cộng đồng. Để bảo tồn di sản phải chú trọng đến nhận thức của cộng đồng về di sản và giá trị của di sản. Chúng ta chưa nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của di sản và giá trị của nó như thế nào. Nhiều người chỉ nhìn thấy cái lợi trước mắt để tạo ra những vật thể mang lại giá trị thặng dư, mà chưa thấy giá trị di sản đã được thế giới xem là vô giá.
Do đó, tôi nghĩ rằng chính quyền các địa phương cần có những chỉ đạo gần với thực tiễn hơn. Hiện nay, chúng ta đang hướng tới phát triển đô thị bền vững, thì nhận thức về vấn đề văn hóa trong đời sống nói chung và trong đô thị nói riêng phải được tăng dần lên cùng sự hiểu biết về nhu cầu của con người.
Trong tháp nhu cầu Maslow có năm tầng: Nhu cầu sinh lý (Physiological Needs); Nhu cầu an toàn và an ninh (Security and Safety Needs); Nhu cầu về tình yêu thương và gắn kết/thuộc về (Love and Belonging); Nhu cầu được tôn trọng (Esteem Needs); Nhu cầu tự hiện thực hóa bản thân (Self-Actualization Needs). Ba tầng dưới của tháp là nhu cầu cơ bản của con người, nhưng hai tầng trên cùng của tháp là văn hóa và sáng tạo. Điều đó có nghĩa là, khi cuộc sống chúng ta bắt đầu ở mức trên trung bình đến khá tốt thì nhu cầu về văn hóa và sáng tạo là rất cao.
Ở tất cả các nước phát triển, việc bảo tồn các di sản, di tích liên quan đến khái niệm văn hóa đô thị luôn được coi trọng gìn giữ. Với Việt Nam hiện nay đang ở mức các nước tiến tới phát triển, thì vấn đề về nhìn nhận di sản đang tiến bộ hơn, nhưng chưa hẳn là tốt.
Hiện nay, các chính sách về quản lý di sản của chúng ta vẫn chưa có những hướng dẫn cụ thể về sự chú trọng đối với các loại hình di sản, ở từng địa phương, với từng khu vực dưới dạng các văn bản mang tính pháp lý… Nước Pháp đã thành lập Cục quản lý di sản kiến trúc năm 1840, nước Anh đã ban bố Pháp lệnh bảo tồn di tích cổ năm 1882. Nhật Bản từ năm 1897 đã có quy định về bảo tồn các Cổ xã tự (đền chùa)... Thế giới có nhiều Hiến chương, văn kiện và công ước quốc tế để bảo vệ di sản, họ tách ra theo từng lĩnh vực như: Hiến chương Athens 1931, Venice 1964 chú trọng việc bảo tồn và trùng tu các di tích lịch sử và nghệ thuật; Hiến chương Bura 1979 chú trọng tới việc bảo tồn các địa điểm di sản có giá trị văn hóa, mà ta gọi là Nơi chốn. Hiến chương Florence 1981 chú trọng bảo tồn các công viên văn hóa lịch sử; Hiến chương Mexico 1999 chú trọng về di sản kiến trúc bản địa; Văn kiện Nara 1994 chú trọng về tính xác thực... Vậy chúng ta cũng cần phải nhìn nhận lại trong hệ quy chiếu của thế giới, để xây dựng quy chế quản lý bảo tồn di sản quốc gia và quy chế thích ứng cho từng địa phương.
Khi nghiên cứu các dự án Bảo tồn các di sản quận Hoàn Kiếm, tôi đã có những kiến nghị với UBND TP Hà Nội về việc quản lý di sản cần phải có những quy chế đặc thù, không thể chỉ là quy chế phổ quát chung mà cần có quy chế đặc thù với những khu vực có giá trị văn hóa lịch sử đặc biệt. Chúng ta mới chú ý tới công trình có giá trị mà chưa chú trọng tới khu vực có giá trị.
Chúng ta đều biết, những khu vực lõi văn hóa lịch sử, có giá trị về đất đai rất cao, giá trị về lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường rất lớn, nên việc quản lý di sản ở đây là cực kỳ khó nếu chúng ta không có những quy chế đặc thù.
Đó chính là cơ sở để chính quyền siết chặt quản lý đối với doanh nghiệp, cá nhân khi họ chưa nhận thức đúng về giá trị của di sản. Tôi cho rằng hướng dẫn này là rất quan trọng và hướng dẫn này phải đi từ dưới lên trên, Nhà nước đưa ra những luật, nghị định từ trên xuống và người dân phải triển khai thực thi từ dưới lên - theo luật, nghị định một cách bài bản và nghiêm ngặt.
Rõ ràng khái niệm về quản lý bảo tồn di sản là khái niệm rất lớn và rất khó. Nếu không có những hướng dẫn cụ thể thì địa phương sẽ cứ bên ngoài hô hào bảo tồn gìn giữ, nhưng bên trong người ta vẫn âm thầm phá hủy.
♦ Từ những diễn biến trong thời gian qua, ông có thể chỉ ra những thách thức trong việc bảo tồn di sản tại các đô thị lớn của Việt Nam trong bối cảnh đô thị hóa tăng tốc?
- Thách thức lớn nhất là mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển. Vì giữa bảo tồn di sản kiến trúc đô thị và phát triển trong bối cảnh đô thị hóa. Một cái là tĩnh - đứng yên, một cái là động - phát triển. Cái biến đứng bên cạnh cái bất biến, rõ ràng là một thách thức và phải làm thế nào mà cái này không cản trở cái kia, cái biến không làm mất cái bất biến.
Kinh nghiệm của một số nước cho thấy rằng thách thức lớn nhất là phải làm thế nào cân bằng hóa giữa bảo tồn và phát triển.
Tôi nói chữ cân bằng ở đây có nghĩa là, bảo tồn di sản đô thị không cản trở phát triển đô thị và phát triển đô thị không làm phá vỡ đặc trưng di sản.
Thành phố nào rồi cũng phải phát triển, nó cần phải rộng lớn, hiện đại hơn. Một số công trình xưa cũ có thể phải phá bỏ, cải tạo, thay thế... nhưng cái vượt lên trên tất cả phải là nguyên tắc tôn trọng lịch sử khi quyết định bảo tồn hay phá bỏ, tôn trọng tính đích thực khi quyết định cải tạo hay trùng tu.
Lấy ví dụ như dự án trùng tu tòa nhà 49 Trần Hưng Đạo, Hà Nội, tôi và các chuyên gia đã cùng trao đổi với các chuyên gia Pháp, nghiên cứu và đưa ra phương pháp phải tìm lại giá trị nguyên gốc của công trình. Yêu cầu đặt ra là công trình phải được trùng tu với các kỹ thuật xưa, bảo tồn hệ thống kết cấu, hệ thống ống nước để nguyên phía ngoài chứ không đưa vào âm tường, trần được làm đúng trần vôi rơm chứ không phải trần thạch cao như bây giờ. Trong quá trình nghiên cứu hiện trạng công trình, thám sát các lớp vữa phủ bên ngoài tường, chúng tôi tìm thấy lớp vữa gốc có màu đỏ. Thời công trình mới xây dựng có hai màu: màu ve vàng và màu ve đỏ giả màu gạch và có kẻ các đường chỉ gạch giả. Chúng tôi dựa trên đó để lựa chọn màu sắc.
Đây là công trình bảo tồn, và người thực hiện muốn bảo tồn nó vì nó là công trình kiến trúc có giá trị, cần giữ giá trị nguyên gốc.
Tôi muốn nói thêm điều đó để thấy được những thách thức trong trùng tu cần phải tôn trọng tính chân xác của di sản. Trong cải tạo còn có quá trình phục chế, và phục chế vẫn phải đảm bảo cái mới không được làm giả để trộn lẫn với cái cũ. Chẳng hạn, một cái cột có một chỗ bị hỏng nếu đắp một cái mới vào thì phải thể hiện đây là vật liệu của giai đoạn hiện tại.
♦ Dường như chúng ta mới chỉ chú ý đến công tác bảo tồn, còn việc cải tạo, chỉnh trang và mở rộng khai thác, quản lý chúng ta có phần xem nhẹ?
- Đúng đấy! Tại sao chúng ta chỉ chú trọng bảo tồn, vì bảo tồn là nhiệm vụ rất quan trọng, nhưng quản lý bảo tồn không khó bằng quản lý cải tạo, chỉnh trang.
Trước hết phải hiểu thế nào là bảo tồn, thế nào cải tạo chỉnh trang để biết được cái gì là quan trọng.
Về bảo tồn, có hai nghĩa: Bảo tồn một cách tuyệt đối nhằm lưu giữ lại cái giá trị đó (conservation); bảo tồn để duy trì và kìm hãm sự xuống cấp của công trình (preservation). Còn cải tạo có ba khái niệm: Cải tạo theo hướng trùng tu đưa công trình trở lại như cũ. Có nghĩa là những cái gì ngoại lai không đúng của thời kỳ trước thì bỏ ra, cái gì nguyên gốc của nó giữ lại (restoration); Cải tạo theo hướng phục dựng là những chỗ còn thiếu thì cho cái mới vào, cái mới không phải cái gốc (reconstruction). Trùng tu và phục dựng đều là cải tạo, nhưng một cái là đưa cái cũ nguyên bản vào và một cái đưa cái mới vào chỗ bị thiếu; Còn cải tạo theo hướng thích ứng (adaptation) là sửa chữa cho thích hợp với chức năng mới mà không làm ảnh hưởng tới di sản. Trường hợp xác định công trình bị hư hỏng và không có giá trị gì thì có thể phá dỡ (destroy). Hiện nay tại Hà Nội có một số biệt thự khi đánh giá xác định công trình đã hư hỏng nhiều không còn giá trị, được chính quyền đồng ý phá dỡ để thay thế bằng một công trình mới có giá trị trong quá trình phát triển kinh tế. Điều đó cho thấy không phải cái gì giữ cũng tốt. Trong đô thị mà cái gì cũng giữ cho dù nó đã trở thành phế tích, sẽ cản trở sự phát triển của xã hội.
Khi xem xét giá trị một công trình để giữ gìn tôn tạo hay phá bỏ thì không chỉ xem xét chính bản thân nó, mà cần phải đặt nó trong bối cảnh rộng lớn hơn, liên kết nó với các công trình khác, cảnh quan xung quanh và cả yếu tố văn hoá bản địa.
Ví dụ, dự án “Cải tạo, sửa chữa, phục hưng, bảo tồn công trình kiến trúc tòa nhà Bắc Bộ phủ - 12 Ngô Quyền, Hà Nội”. Đây là một công trình mang giá trị không chỉ về mặt kiến trúc mà còn cả về mặt lịch sử, văn hóa. Công việc đầu tiên của Dự án là cần phải hiểu rõ về lý lịch của công trình trước khi trùng tu. Vì vậy, việc khảo sát đánh giá công trình là quan trọng và cần thiết, nếu không, đôi khi sẽ làm mất đi giá trị di sản. Đó là lý do tại sao nói cải tạo khó hơn bảo tồn. Nếu cho phép cải tạo thì phải theo dõi quản lý việc cải tạo không được sai. Vấn đề giám sát quản lý cải tạo phải rất cẩn thận, hơn nữa cần phải có trình độ chuyên môn, nếu không sẽ bị “qua mặt”.
♦ Trong câu chuyện bảo tồn và phát triển giá trị các di sản văn hóa có ý kiến cho rằng, đã đến lúc chúng ta cần định giá di sản đô thị để giúp nhận thức rõ giá trị kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường của di sản, từ đó xây dựng các chiến lược bảo tồn và phát triển đô thị. Ý kiến của ông về nội dung này như thế nào?
- Nói thật, chúng ta đang bị nhầm lẫn giữa di sản đô thị và đô thị di sản. Chúng ta có rất nhiều di sản đô thị, nhưng Việt Nam chưa được thế giới công nhận đô thị di sản nào!
Di sản đô thị của Huế rất nhiều. Quần thể lăng mộ là một di sản; sông Hương núi Ngự là một di sản thiên nhiên; Cố đô là một di sản… Như vậy, mình có rất nhiều khu vực di sản ở Huế được gọi là di sản đô thị.
Huế đang phấn đấu trở thành đô thị di sản, nhưng chưa được công nhận, khi chưa thỏa mãn về tổng thể cấu trúc của một đô thị di sản… nhằm tạo được sự hài hòa giữa khu vực cũ (bảo tồn) và khu vực mới (phát triển), trong đó khu vực mới không phá cái cũ. Có như vậy mới được coi là đô thị di sản, còn nếu không chỉ là di sản đô thị.
Tầm nhìn về di sản là tầm nhìn rất lớn và lâu dài, để cho muôn đời con cháu chứ không thể chỉ nhìn cái lợi trước mắt mà phá đi thứ không thể làm lại được. Di sản là bất biến, cần có hệ thống quản trị đặc biệt. Nếu không có hệ thống pháp lý, không có sự nghiêm ngặt thì đằng sau đó vẫn xuất hiện sự biến mất của di sản.
♦ Vậy làm thế nào để chúng ta có được một đô thị di sản đúng nghĩa?
- Tôi là người đầu tiên viết cuốn sách Hình thái học đô thị cho giảng dạy đại học và cao học kiến trúc tại Việt Nam. Môn hình thái học đô thị ra đời từ bao giờ và vào hoàn cảnh nào? Nó ra đời vào những năm 70 của thế kỷ 20 tại Florence (Italia) khi họ muốn xây một khu ở mới bên cạnh một khu cũ cần phải được bảo tồn. Cần phải kiến tạo một cấu trúc quy hoạch phù hợp giữa khu mới và khu cũ. Môn hình thái học đô thị ra đời vì mục đích đó.
Hình thái đô thị không phải là yếu tố bất biến, có những hình thái kiến trúc quy hoạch biến đổi tùy theo tác động của yếu tố chính trị - kinh tế - xã hội. Để tạo ra một hình thái phát triển theo cách riêng của mình, hình thái học đô thị không chỉ phân tích yếu tố cốt lõi, yếu tố bất biến của đô thị mà còn chỉ ra những yếu tố tạo nên sự biến đổi hình thái của đô thị. Đó là sự định dạng về hình thể và cấu trúc đô thị cùng các liên kết về không gian tổ chức công năng giữa kiến trúc - quy hoạch - cảnh quan đô thị.
Sâu sắc như thế mới thành đô thị di sản được, bởi đô thị di sản không chỉ là phép cộng đơn giản các di tích mà còn phải là quy hoạch và thiết kế đô thị thích ứng cùng các khía cạnh phi vật thể liên quan đến tính đa dạng và bản sắc, các giá trị và thực tiễn văn hóa - xã hội của đô thị. Thích ứng là đưa một cấu trúc mới vào mà không làm ảnh hưởng tới giá trị di sản. Rất tiếc là ở Việt Nam chúng ta chủ yếu chỉ nhìn nhận di sản ở khía cạnh đơn lẻ, mà chưa có cái nhìn bao quát, tổng thể về mặt hình thái đô thị.
Trong một cuộc thi thiết kế cổng mới bên cạnh Khải hoàn môn ở Paris, có một kiến trúc Đan Mạch đã chiến thắng với ý tưởng tạo một cổng mới hiện đại (Grande Arche) nằm trên trục kéo dài (Axe historic) của Khải hoàn môn (Arche Triomphe).
Điều này giải thích lý do phương án đoạt giải nhất vì cái nhìn văn hóa của tác giả “cái mới phải soi chiếu cái cũ”. Tư duy của thế giới hiện nay là, bảo tồn không chỉ một công trình đơn lẻ mà phải là bảo tồn cả quần thể kiến trúc, cả một cấu trúc đô thị. Cho nên, quy hoạch và thiết kế đô thị rất quan trọng trong bảo tồn, không phải cho một công trình riêng lẻ, mà là cả mạng lưới các công trình kiến trúc và không gian đô thị.
♦ Có giải pháp nào trong việc giải quyết những xung đột giữa kinh tế và giữ gìn phát huy giá trị di sản, thưa ông?
- Xung đột giữa bảo tồn và phát triển không phải lỗi của di sản, mà do chúng ta chưa nhận thức đúng. Nếu bảo tồn tốt di sản thì không chỉ có ý nghĩa lớn cho văn hóa đô thị, nó còn là nguồn tài nguyên đưa lại lợi ích kinh tế. Đừng thiếu trách nhiệm để cho rằng bảo tồn và phát triển có xung đột.
Cây cầu Long Biên là một minh chứng của cuộc tranh cãi giữ gìn hay phá bỏ. Cây cầu trải qua hơn một thế kỷ tồn tại đã là một phần ký ức của Hà Nội, nhưng khi công năng sử dụng về giao thông bị hạn chế, đã từng có dự án dỡ cầu đặt xuống bãi giữa sông Hồng để trưng bày. Nhiều ý kiến cho rằng cầu Long Biên chưa được xếp hạng di tích nên không nằm trong diện được bảo vệ nguyên vẹn như Luật Di sản quy định.
Tuy nhiên nếu xem xét lý lịch cầu Long Biên thì ai cũng phải công nhận giá trị to lớn của một di sản kiến trúc thuộc địa bằng thép duy nhất, cần phải được bảo tồn.
Theo tôi, trong mâu thuẫn giữa cái này với cái kia thì có yếu tố thị trường nhưng cũng có yếu tố phi thị trường. Nhắc đến điều này tôi phải dẫn thêm câu chuyện về Nam tước Georges-Eugène Haussmann (1809 - 1891), người được cộng đồng quốc tế công nhận là người thay đổi triệt để, nâng tầm thủ đô nước Pháp thành Kinh đô ánh sáng bằng một thiết kế quy hoạch đô thị táo bạo hiện đại.
Khi Haussmann giữ chức vụ tỉnh trưởng tỉnh Seine - tỉnh cũ bao gồm cả thành phố Paris. Chỉ một tuần sau khi được bổ nhiệm, Haussmann đã gửi lên vua Napoléon III tấm bản đồ quy hoạch Paris, thể hiện trên tấm bản đồ của thành phố bằng 3 đường thẳng vuông góc: Một đường chạy từ hướng Bắc sang hướng Nam, hai đường chạy từ Đông sang Tây nằm bên tả ngạn và hữu ngạn sông Seine, xẻ khu trung tâm Paris - nơi đầy các di tích lịch sử từ thời trung cổ, đồng thời là nơi dân cư tập trung đông nhất. Ý tưởng của ông lúc bấy giờ là mong muốn Paris trở thành thành phố tráng lệ, nhưng nhiều ý kiến cho rằng ý tưởng đó của ông là độc đoán, phá hoại, đang tâm xé nát trung tâm lịch sử thời trung cổ của Paris bằng những con đường rải sỏi. Nhưng rồi, theo thời gian, sự phát triển đã biến một đô thị thời trung đại thành đô thị thời kỳ cận đại mà Paris là tiêu biểu của những cái mới.
Vắn tắt câu chuyện trên để thấy rằng, bảo tồn để phát huy giá trị, nhưng không có nghĩa là không thể thay đổi cấu trúc giữa khu cũ và mới trong sự cân nhắc và tính toán các hệ thống giá trị, nhằm tạo môi trường an toàn, hiệu quả, tăng tính thẩm mỹ, phát huy giá trị công năng của các công trình kiến trúc, quy hoạch có giá trị và triển vọng phát triển.
Thế nên, chúng ta phải phân biệt được đôi khi cái cải tạo, cái biến thể và cái thay đổi có thể xuất phát từ một vấn đề thị trường nhưng cũng có thể xuất phát từ phi thị trường, thậm chí là ý tưởng tạo nên hình ảnh mới đẹp cho đô thị.
♦ Một mối lo hiện nay là, ở các di sản đô thị của Việt Nam, đang có tình trạng thiếu kinh phí trùng tu, gìn giữ và bảo vệ các di sản. Điều này phản ánh thái độ ứng xử của chúng ta với các di sản đô thị?
- “Ngôi nhà là di sản có người sinh sống”, gọi tắt là di sản sống, đây là thuật ngữ hàm chứa ý nghĩa là các di tích, di sản đó gắn bó mật thiết với cộng đồng cư dân bản địa, và người dân bản địa vẫn hằng ngày duy trì tính liên tục của di sản đó.
Trong các đô thị, bất động sản cổ thường có giá trị ở vị trí trung tâm giúp chủ nhà có khả năng sinh kế vượt trội. Nhà đầu tư mua lại các biệt thự cổ với mục đích phá biệt thự cũ để xây dựng building cao tới 9 - 10 tầng, với mật độ 80 - 90% trong khi biệt thự cũ là 2 tầng với mật độ chỉ 20 - 25%.
Rõ ràng, giá bất động sản ở một vị trí đắc địa thì giá trị được tăng lên rất nhiều. Vì vậy nhiều nhà đầu tư mua biệt thự cũ với mục đích đầu tư sinh lời. Nhưng ở một số khu vực của đô thị lại có những quy chế quản lý công trình di sản nghiêm ngặt, tuân thủ các quy định cấm sửa chữa, phục hồi, làm thay đổi tính chất lịch sử của ngôi nhà. Vì vậy có sự mâu thuẫn trong việc đầu tư các bất động sản cổ.
Các chính sách quản lý bảo tồn di sản của nhà nước cần phải có cái nhìn tương hợp với cộng đồng, thực sự đem lại lợi ích cho cả chính quyền và người dân.
Lấy minh chứng với di sản làng cổ Đường Lâm, là làng cổ đầu tiên ở Việt Nam được trao bằng Di tích lịch sử văn hóa quốc gia tháng 5/2006. Làng vẫn giữ được hầu hết đặc trưng cơ bản của ngôi làng người Việt với cổng làng, cây đa, bến nước, sân đình, và đặc biệt là những ngôi nhà cổ.
Tuy nhiên, nhiều người dân Đường Lâm xin trả lại Nhà nước danh hiệu di sản vì quá khổ. Danh hiệu "di tích" khiến cho nhiều người dân Đường Lâm có tiền cũng không được xây nhà, hoặc xây rồi lại bị cưỡng chế phá dỡ. Cái gọi là "di tích" loại I, loại II, đang khiến họ phải sống trong không gian dột nát và chật chội.
Trên thực tế họ không được thu lợi nhuận gì từ di sản họ đang gìn giữ. Khắc nghiệt hơn, họ bị cấm quyền phát triển di sản của mình, nên họ cảm thấy bị thua thiệt so với các hộ dân sống ngoài vùng di sản. Bởi vậy, nhiều nước trên thế giới đã sử dụng chính sách toàn diện hơn cho người sống trong vùng di sản; được trao quyền, tạo điều kiện cho cộng đồng địa phương có tiếng nói trong quá trình xây dựng chính sách, bảo tồn di sản.
Việc bảo tồn các di sản sống trong khu vực di sản cần phải được chú trọng hơn, liên quan đến lợi ích cộng đồng. Làm sao bảo tồn mà vẫn đáp ứng yêu cầu của dân. Phải có chính sách hỗ trợ tài chính tạo điều kiện để người dân có thu nhập từ chính ngôi nhà di sản của mình. Chúng ta không chỉ bảo vệ di sản văn hóa, mà còn phải đảm bảo đời sống cho người dân vùng di sản.
Phát huy giá trị di sản liên quan tới chức năng sử dụng phải phù hợp. Một số biệt thự đưa vào hoạt động thành những trụ sở của đại sứ quán hay văn phòng là đúng chức năng. Di sản nên cân nhắc khi biến thành nhà ăn, dịch vụ xô bồ, ồn ào. Nghĩa là giá trị nào chức năng đó, nhưng phải có quản lý tốt.
Phát huy giá trị liên quan đến con người, phải làm thế nào để người dân cảm nhận được giá trị di sản không ảnh hưởng đến kinh tế, mà là điều kiện để phát triển kinh tế. Nếu chỉ đưa ra những quy định mà không nhìn nhận về nhu cầu mong muốn của họ thì rất khó có thể gìn giữ giá trị di sản. Chính quyền cần có chính sách phù hợp để họ có thể sống được cùng với di sản, để cộng sinh, sẻ chia kinh tế.
Nếu không thực sự chú trọng sẽ dẫn đến tình trạng suy thoái của loại hình di sản này, dần đánh mất yếu tố cộng đồng và tính liên tục của truyền thống văn hóa làng cổ.
♦ Là người đang sống trong phố cổ Hà Nội, theo ông, mỗi chúng ta phải làm gì để gìn giữ giá trị di sản?
- Người phố cổ được giáo dục rất kỹ về văn hóa ứng xử. Ý thức gìn giữ di sản là thuộc về đạo đức, là sự tôn trọng truyền thống cha ông, tôn trọng lịch sử. Nếu chúng ta chỉ nghĩ đến thặng dư, bỏ qua giá trị mà ông cha ta để lại, chúng ta sẽ chẳng là gì của tương lai. Một xã hội phát triển không phải là xã hội chỉ giàu có về vật chất, mà phải giữ được đạo đức, biết trân trọng lịch sử đã tạo dựng nên vùng đất, con người với những bản sắc riêng của mình.
Một xã hội phát triển phải là xã hội văn hóa. Tôi cho rằng giá trị di sản thể hiện ở sự trân quý của những gì tạo ra trong lịch sử của đời ông đời cha truyền thống giữ gìn cho con cháu thì mới bền vững.
Tôi ví dụ, tại khu “đất vàng” nơi đang xây dựng dự án Tiến Bộ Plaza (175 phố Nguyễn Thái Học, Hà Nội) có tồn tại một di tích lịch sử quý báu, ghi dấu những năm tháng kháng chiến hào hùng của dân tộc mang tên Trại giam Nhà Tiền và một cây đa lịch sử. Khi quy hoạch xây dựng, tư vấn đã phải tính toán rất kỹ để bảo tồn gìn giữ lại những khu vực này. Rõ ràng, ở đây chủ đầu tư rất có ý thức tôn trọng di sản.
Các đô thị hiện nay, đô thị nào cũng có tài sản đô thị nhưng lại chưa bao giờ thống kê cho mình kho tài sản đó.
Trong Văn kiện Narra 1994 có khái niệm về Gen di sản. Phần lớn các đô thị đều có ADN di sản, nhưng bản thân lại không nhận thức được Gen của mình mà lại đi lấy gen của nơi khác cấy vào không gian đô thị của mình. Đó là hiện tượng biến đổi gen. Điều đó lý giải vì sao Hà Nội luôn đúng là Hà Nội, trong khi Phú Quốc và một vài thành phố khác thì lại hơi giống châu Âu?
Văn hóa là gốc, văn minh là ngọn. Văn hóa là bộ rễ. Rễ có chắc thì cây mới lớn, nếu cây chỉ tỏa ra văn minh mà rễ không đủ chắc thì cây sẽ đổ. Văn hóa cân bằng với tất cả tiến bộ kỹ thuật mà chúng ta đang thừa hưởng. Một kiến trúc sư danh tiếng thế kỷ 20 đã nói rằng: Diện mạo của một thành phố có tuổi đời lâu năm giống như một khuôn mặt người, mà đã là khuôn mặt người lớn tuổi thì không thể không có nếp nhăn, có vết nám, thậm chí là cả những vết sẹo, nhưng đó mới là khuôn mặt người. Nếu không có chúng thì sẽ là khuôn mặt của ma-nơ-canh, bóng mịn, vô hồn. Những di sản văn hoá - lịch sử - kiến trúc chính là những nếp nhăn của khuôn mặt thành phố. Chúng ta cần trân trọng và gìn giữ, phát huy những giá trị di sản lịch sử để lại. Bởi, một đất nước không biết nuối tiếc, liệu có còn đủ sức mơ tới tương lai?
♦ Trân trọng cảm ơn ông về cuộc trò chuyện!