“Cánh cửa lớn” cho thị trường các-bon

13:59 25/02/2022
Thị trường các-bon được kỳ vọng sẽ giúp giảm 50% lượng phát thải khí nhà kính trên toàn thế giới. Việc áp dụng định giá các-bon cũng tạo động lực cho doanh nghiệp tư nhân chung tay vì mục tiêu các-bon thấp của Việt Nam.

Năm 2022 có ý nghĩa đặc biệt khi ứng phó biến đổi khí hậu toàn cầu bước sang giai đoạn mới với việc các bên bắt đầu thực hiện Thỏa thuận Paris. Trong đó, bao gồm đóng góp về giảm phát thải nhà kính được cam kết trong Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC). Việt Nam đã hoàn thành NDC cập nhật và đã gửi Ban Thư ký Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu. Bằng sự quyết tâm, trách nhiệm và bằng nguồn lực trong nước, Việt Nam sẽ giảm 9% tổng lượng phát thải khí nhà kính so với kịch bản phát triển thông thường, tương đương 83,9 triệu tấn CO2. Mức đóng góp giảm nhẹ sẽ tăng lên 27%, tương đương 250,8 triệu tấn CO2 khi nhận được hỗ trợ quốc tế.

Nhìn ra thế giới, hiện có 46 quốc gia và 35 vùng lãnh thổ áp dụng hoặc lên kế hoạch áp dụng công cụ định giá các-bon, với tổng lượng khí nhà kính được kiểm soát 12 tỷ tấn CO2 tương đương, chiếm 22,3% tổng lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu. Đây là hướng đi tiềm năng bởi chỉ tính riêng năm 2019, nguồn thu từ định giá các-bon toàn cầu lên đến 45 tỷ USD.

Còn tại Việt Nam, ước tính có thể bán ra 57 triệu tín chỉ các-bon cho các tổ chức quốc tế và nếu tính theo giá 5 USD/tín chỉ, mỗi năm, có thể thu về hàng trăm triệu USD. Đó là những con số rất ấn tượng hứa hẹn là nguồn tài nguyên mới. Và quan trọng hơn phía sau những trị số đó nếu chúng ta biết khai thác hiệu quả sẽ có nguồn kinh phí lớn để nâng cao thu nhập cho người trồng rừng, đồng thời, góp phần không nhỏ bảo vệ và phát triển rừng tại Việt Nam.

Ảnh minh họa

Ước một con số không quá khó, điều quan trọng là giải pháp để hiện thực hóa những tính toán này. Để tận dụng tiềm năng từ việc mua bán tín chỉ CO2, chúng ta cần hoàn thiện nhiều quy định chi tiết để hình thành thị trường các- bon trong và ngoài nước. Bởi, tham gia thị trường các-bon là cơ hội để tạo nguồn thu tài chính, tiếp nhận công nghệ hiện đại ít các-bon và chung tay với thế giới trong mục tiêu giảm khí gây hiệu ứng nhà kính. Muốn làm được điều này, việc xây dựng, vận hành thị trường các-bon còn là một quá trình dài, đòi hỏi đầu tư nhiều về kỹ thuật, nhân lực và tài chính.

Do vậy, để hình thành và phát triển thị trường các-bon ở Việt Nam, cần xây dựng, ban hành hệ thống kiểm kê khí nhà kính, hệ thống giám sát phát thải khí nhà kính và hệ thống MRV (đo đạc, báo cáo, thẩm định) cấp quốc gia/ngành/tiểu ngành/cơ sở sản xuất một cách minh bạch, chính xác theo tiêu chuẩn quốc tế; xác định lộ trình giảm phát thải khí nhà kính cho từng ngành/tiểu ngành…

Một khu vực được coi là có tính sẵn sàng thị trường là khi hệ thống điều tiết và thị trường của nó đảm bảo tính toàn vẹn và hiệu quả của môi trường. Toàn vẹn môi trường trong trường hợp này có thể hiểu là đạt được mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính. Hiệu quả có nghĩa là tìm giải pháp chi phí tối thiểu để giảm phát thải. Để đáp ứng yêu cầu sẵn sàng của thị trường, cần có sự sẵn sàng về quy định và sẵn sàng kinh doanh. Việt Nam có tiềm năng phát triển thị trường các-bon nội địa, cũng như cơ hội để liên kết với các thị trường khác trong khu vực và thế giới. Việt Nam cũng cần nâng cao tính sẵn sàng, đồng thời, xây dựng hệ thống MRV để đảm bảo xây dựng và vận hành thị trường các-bon thành công.

“Đường lớn” đã mở, việc còn lại là xây dựng những quyết sách để tạo dựng “con đường” đó.

Nguồn: báo Tài nguyên & Môi trường

Bình luận