Chỉ số nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tháng 4/2024 tăng 0,21%

11:29 29/04/2024
Báo cáo của Tổng cục Thống kê về chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4/2024 cho biết, trong 8 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng, nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng chỉ đứng thứ 4 với mức tăng 0,21%...

Giá xăng dầu tăng theo giá nhiên liệu thế giới là nguyên nhân chính làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4/2024 tăng 0,07% so với tháng trước. So với tháng 12/2023 CPI tháng 4 tăng 1,19% và so với cùng kỳ năm trước tăng 4,4%.

Bình quân bốn tháng đầu năm 2024, CPI tăng 3,93% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 2,81%.

Trong mức tăng 0,07% của CPI tháng 4/2024 so với tháng trước ( tháng 3/2024) có 8 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng, 3 nhóm hàng có chỉ số giá giảm.

Theo đó, 8 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm: Nhóm giao thông tiếp tục giữ vị trí tăng cao nhất với 1,95%; Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,92%; Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,27% chủ yếu do tăng giá các mặt hàng đồ dùng cá nhân (tăng 0,6%); Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng (VLXD) tăng 0,21%; Nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,12% do nhu cầu tiêu dùng một số loại cho mùa hè tăng; Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,11%; Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,09%; Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,03%.

Nguồn: Tổng cục Thống kê.

Đáng chú ý, nhóm nhà ở và VLXD tháng này rời vị trí thứ 2 (tháng 3) xuống vị trí thứ 4 trong nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng có chỉ số tăng, với mức tăng chỉ 0,21% do các nguyên nhân: Giá điện sinh hoạt tăng 0,27% do nhu cầu sử dụng điện tăng khi thời tiết nắng nóng gay gắt ở các địa phương phía Nam; giá dầu hỏa tăng 1,35% trước do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá trong tháng; giá thuê nhà tăng 0,41% do nhu cầu thuê nhà ở tăng; giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,29% do giá cát, thép tăng cao theo nhu cầu tiêu thụ.

Ngoài ra, dịch vụ điện sinh hoạt tăng 0,86%, dịch vụ về nước sinh hoạt tăng 0,47%; dịch vụ sửa chữa nhà ở tăng 0,35% do chi phí nguyên vật liệu và chi phí nhân công tăng. Tuy nhiên, giá gas trong tháng giảm 1,08% so với tháng trước do từ ngày 01/4/2024, giá gas trong nước điều chỉnh giảm khoảng 5.000 đồng/bình 12 kg sau khi giá gas thế giới giảm 18 USD/tấn so với tháng trước xuống mức 617,5 USD/tấn.

Ở chiều ngược lại, 3 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm gồm: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,13%; Nhóm bưu chính, viễn thông giảm 0,17%;  Nhóm giáo dục giảm 2,93% so với tháng trước, góp phần giảm CPI chung giảm 0,18 điểm phần trăm, trong đó dịch vụ giáo dục giảm 3,32%.

Lạm phát cơ bản tháng 4/2024 tăng 0,17% so với tháng trước và tăng 2,79% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 4 tháng đầu năm 2024, lạm phát cơ bản tăng 2,81% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức CPI bình quân chung (tăng 3,93%), chủ yếu do giá lương thực, xăng dầu và giá dịch vụ y tế là yếu tố tác động tăng CPI nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính toán lạm phát cơ bản.

Giá vàng trong nước biến động cùng chiều với giá vàng thế giới. Tính đến ngày 25/4/2024, bình quân giá vàng thế giới ở mức 2.322,36 USD/ounce, tăng 8,54% so với tháng 3/2024 do căng thẳng địa chính trị leo thang ở Trung Đông thúc đẩy các nhà đầu tư tìm đến vàng như một kênh trú ẩn an toàn.

Trong nước, chỉ số giá vàng tháng 4/2024 tăng 6,95% so với tháng trước; tăng 17,01% so với tháng 12/2023; tăng 28,62% so với cùng kỳ năm trước; bình quân bốn tháng đầu năm 2024 tăng 20,75%.

Trên thế giới, giá đồng USD tăng do Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) chưa đưa ra thời gian cụ thể nới lỏng chính sách tiền tệ, giảm lãi suất nên giá trị đồng USD tăng cao. Tính đến ngày 25/4/2024, chỉ số USD trên thị trường quốc tế đạt mức 104,95 điểm, tăng 1,4% so với tháng trước.

Trong nước, nhu cầu USD của các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu tăng, giá USD bình quân trên thị trường tự do quanh mức 25.120 VND/USD. Chỉ số giá USD tháng 4/2024 tăng 1,2% so với tháng trước; tăng 3,03% so với tháng 12/2023; tăng 6,51% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 4 tháng đầu năm 2024 tăng 4,6%.

Bình luận