Chờ “lực đẩy chính sách” để khơi thông Chờ “lực đẩy chính sách” để khơi thông

Chờ “lực đẩy chính sách” để khơi thông

Vật liệu xây dựng vốn nằm trong mắt xích cuối của chuỗi giá trị bất động sản (BĐS) - xây dựng (XD) - vật liệu xây dựng (VLXD) nên sẽ khó có sự đột phá khi mà những vướng mắc của thị trường BĐS vẫn chưa được tháo gỡ hoàn toàn.

6 tháng vừa qua, thị trường VLXD trong nước vẫn bị ảnh hưởng bởi những khó khăn đã kéo dài từ năm 2023 như: đầu tư xây dựng giảm sút, nhiều công trình, dự án hạ tầng và nhà ở chậm triển khai, phải giãn, hoãn tiến độ… Bên cạnh đó, cước vận tải tăng làm tăng giá bán VLXD, cộng thêm hàng nhập khẩu đổ bộ, khiến cạnh tranh tiêu thụ càng thêm khó khăn, nhiều DN đang phải đối mặt tình trạng thiếu hụt dòng tiền, thua lỗ…

Theo khảo sát của Vietnam Report, các DN trong lĩnh vực VLXD vẫn phải đối mặt với những khó khăn lớn như: Luân chuyển dòng tiền chậm (do lượng giao dịch kém); Tình trạng hạn chế tài chính của người mua do kinh tế tăng trưởng chậm; biến động giá nguyên vật liệu, VLXD; cạnh tranh giữa các DN; đứt gãy chuỗi cung ứng trong nước và quốc tế; lệch pha cung - cầu…

Trong khi đó, năng lực sản xuất VLXD của Việt Nam hiện tại là khá lớn. Nguồn cung lớn, nhưng cầu chưa thật sự có lực để hỗ trợ, chính vì thế, dẫn đến việc hàng loạt các doanh nghiệp sản xuất xi măng, sắt thép, kính, gạch ốp lát… trong 6 tháng đầu năm vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, tồn kho và tiêu thụ sản phẩm VLXD chậm.

 

Nhiều lực cản với ngành thép

Trong 6 tháng đầu năm nay, thị trường thép đã có 7 lần điều chỉnh giá (2 lần tăng và 5 lần giảm). Trong khi 6 tháng đầu năm 2023, giá thép có tới 18 lần điều chỉnh (6 lần tăng và 12 lần giảm). Như vậy, cho thấy thị trường thép 6 tháng đầu năm nay giá đã ít biến động hơn năm 2023, nhưng xu hướng chung vẫn là giảm.

Diễn biến giảm giá thép xây dựng nội địa năm 2024 đến sớm hơn so với 2 năm gần đây.

Trong khi cùng thời điểm quý 1, giá thép năm 2023 điều chỉnh tăng tới 6 lần liên tiếp kéo giá thép dao động ở mức phổ biến hơn 17 triệu đồng/tấn thì trong quý 1 năm nay, giá thép chỉ tăng có 2 lần liên tiếp và dao động ở mức phổ biến hơn 14 triệu đồng/tấn, sau đó quay đầu theo xu hướng giảm kể từ đầu tháng 3 đến nay.

Nếu tính tổng giá trị 5 lần giảm giá trong 6 tháng đầu năm 2024, khoảng gần 900.000 đồng/tấn, đây là con số nhỏ hơn rất nhiều so với tổng giá trị hơn 4 triệu đồng/tấn của 12 lần giảm trong 6 tháng đầu năm 2023.

Theo các chuyên gia nhận định, các đợt giảm giá thép thời gian qua chưa tác động mạnh đến thị trường do loại thép giảm chủ yếu thép cuộn CB240. Loại thép này chỉ chiếm khoảng 26% tỷ trọng của cơ cấu sản phẩm tiêu thụ thép xây dựng tại thị trường nội địa.

Việc điều chỉnh giảm giá thép của các DN trong 6 tháng qua phần lớn là do giá nguyên vật liệu đầu vào sản xuất thép trong xu hướng giảm, cộng với nhu cầu tiêu thụ thép nội địa còn khá thấp nên các nhà máy buộc phải điều chỉnh giảm giá bán để đẩy bớt lượng hàng tồn kho, nhằm bù lại một phần chi phí sản xuất tăng. Mặt khác, giá thép giảm cũng là để cạnh tranh với thép nhập khẩu giá rẻ của Trung Quốc đang ngày càng gia tăng.

Hiện giá các loại tại 3 miền đang dao động ở mức phổ biến khoảng 14,2 triệu đồng/tấn.

Theo các nhà phân tích, diễn biến giảm giá thép xây dựng nội địa năm 2024 đến sớm hơn so với 2 năm gần đây. Nếu như năm 2024, giá thép bắt đầu xu hướng giảm từ đầu tháng 3 thì năm 2023 xu hướng giảm giá bắt đầu từ tháng 4, còn năm 2022 giảm giá bắt đầu từ tháng 5.

Mặc dù thị trường thép thế giới hiện nay biến động không ổn định và phức tạp, nhưng hầu hết những giới quan sát thị trường vẫn nhận định lạc quan rằng thị trường thép xây dựng nội địa quý II/2024 có nhiều chuyển biến tích cực hơn quý I/2024, đặc biệt là sự cải thiện về nhu cầu tiêu thụ thép. Sản lượng tiêu thụ thép quý II của nhiều DN tăng so với quý I và thậm chí có thể đưa mức sản lượng lũy kế dần dần đạt mức tương đương cùng kỳ năm 2023.

Tuy nhiên, một trong những vấn đề quan ngại nhất hiện nay là việc gia tăng nhập khẩu thép giá rẻ từ Trung Quốc. Điều này đã gây áp lực và khó khăn cho nhiều DN sản xuất thép nội địa.

Ông Nghiêm Xuân Đa, Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) cho biết, khó khăn lớn hiện nay của ngành thép nội địa là tình trạng cung vượt cầu, bên cạnh đó, việc gia tăng nhập khẩu thép từ Trung Quốc đã làm cho các nhà sản xuất thép Việt Nam đang phải đối diện với nguy cơ mất thị trường nội địa và sự cạnh tranh về giá trong nước khốc liệt hơn.

Hiện nay việc gia tăng nhập khẩu thép giá rẻ từ Trung Quốc đã gây áp lực và khó khăn cho nhiều DN sản xuất thép nội địa.

Thống kê của Hải quan Trung Quốc cho thấy, 5 tháng đầu năm 2024, nước này đã xuất khẩu 45 triệu tấn thép, tăng 25% so với cùng kỳ năm 2023; và tiếp tục ồ ạt đổ vào thị trường Việt Nam.

Lũy kế 5 tháng năm 2024, cả nước nhập khẩu 7,48 tỷ USD sắt thép các loại, tăng 26,3%, trong đó riêng thép nhập từ Trung Quốc đạt 4,77 tỷ USD, tăng 53,8% so với cùng kỳ năm 2023 và tăng 37,9% so với cùng kỳ năm 2022.

Theo dữ liệu mới nhất từ Tổng cục Hải quan, tháng 4/2024, lượng thép cán nóng (HRC) nhập khẩu vào Việt Nam tiếp tục tăng cao, đạt mức 890.000 tấn, gấp 1,5 lần lượng sản xuất nội địa. Trong đó, thép cán nóng nhập khẩu từ Trung Quốc chiếm 71%.

Lũy kế 4 tháng đầu năm 2024, tổng lượng thép cán nóng nhập khẩu về Việt Nam là 3,93 triệu tấn, tăng 32% so với cùng kỳ năm 2023 và bằng 159% lượng sản xuất của toàn ngành sản xuất HRC trong nước.

Trong đó, lượng nhập từ Trung Quốc chiếm 73% với 2,9 triệu tấn, gấp hơn 2 lần cùng kỳ năm 2023. Đây là lần đầu tiên, Việt Nam có lượng nhập khẩu HRC trong 1 năm lớn hơn lượng sản xuất trong nước.

Với lượng nhập khẩu như vậy, Hiệp hội Thép Việt Nam cho biết, sản xuất của 2 DN sản xuất thép cán nóng trong nước là Formosa và Hòa Phát đã sụt giảm do phải cạnh tranh thiếu công bằng với hàng nhập khẩu bán dưới giá thành.

Việc nhập khẩu tăng mạnh, giá bán thấp đã khiến thị phần bán hàng nội địa của 2 nhà sản xuất HRC trong nước giảm mạnh.

Mặc dù sản xuất thép của Việt Nam hiện đứng vị trí thứ 13 thế giới và đứng đầu khu vực ASEAN. Tuy nhiên, ngành thép còn có những điểm nghẽn mang tính dài hạn.

Theo đó, Việt Nam tiếp tục nhập khẩu thép cán, chiếm trên 50% tổng kim ngạch nhập khẩu (chủ yếu là thép HRC). Ngoài ra, Việt Nam vẫn nhập khẩu thép hình, một số sản phẩm tôn mạ kim loại và sơn phủ màu, chiếm khoảng 20 - 25% nhu cầu tiêu dùng trong nước.

Trước thực tế này, Hiệp hội Thép Việt Nam đã kiến nghị các cơ quan liên quan tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn quản lý kỹ thuật, quản lý chất lượng, hàng rào kỹ thuật. Từ đó, ngăn ngừa các sản phẩm thép không đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật an toàn và môi trường tràn vào thị trường Việt Nam.

Theo dữ liệu mới nhất từ Tổng cục Hải quan, tháng 4/2024, lượng thép cán nóng (HRC) nhập khẩu vào Việt Nam tiếp tục tăng cao.

Bộ Công Thương kịp thời áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại (biện pháp tự vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp, lẩn tránh thương mại) nhằm ngăn ngừa hành vi cạnh tranh không lành mạnh, bảo vệ sản xuất trong nước.

Đối với vấn đề thép nhập khẩu ồ ạt vào thị trường, ngày 14/6, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số 1535/QĐ-BCT về việc điều tra áp dụng biện pháp chống bán phá giá với một số sản phẩm thép mạ có xuất xứ từ Trung Quốc và Hàn Quốc.

Ngoài ra, Bộ Công Thương đã ra thông báo về việc đã tiếp nhận hồ sơ đầy đủ, hợp lệ yêu cầu để tiến hành điều tra áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với sản phẩm thép HRC từ Ấn Độ và Trung Quốc.

Ở chiều ngược lại, thị trường xuất khẩu thép cũng đang có nhiều bất ổn cùng với giá cước vận tại quốc tế tăng, tiềm ẩn nhiều rủi ro cho các DN ngành thép.

Đáng chú ý là sự gia tăng của chủ nghĩa bảo hộ sản xuất trên toàn thế giới khi các nước đều tăng cường các hàng rào kỹ thuật, phòng vệ thương mại nhằm ngăn cản thép nhập khẩu để bảo vệ sản xuất trong nước. Đây là lực cản không nhỏ đối với việc xuất khẩu thép của Việt Nam hiện nay.

 

Thị trường xi măng ảm đạm

Theo báo cáo của Bộ Xây dựng, ước tính đến hết tháng 6/2024, tổng sản lượng sản xuất clinker và xi măng toàn quốc đạt khoảng 44 triệu tấn xi măng, tương đương cùng kỳ năm 2023 và dự kiến chỉ đạt khoảng 70 - 75% tổng công suất thiết kế. Tồn kho lũy kế khoảng 5 triệu tấn xi măng và clinker.

Ước tính đến hết 6 tháng đầu năm 2024, lượng clinker xuất khẩu cũng chỉ đạt khoảng 5,4 triệu tấn, gần bằng cùng kỳ năm 2023.

Thị trường tiêu dùng xi măng ảm đạm, trong khi tổng công suất thiết kế của ngành xi măng quá lớn (123 triệu tấn, nhưng có thể sản xuất hơn con số này hàng chục triệu tấn), cho nên hiện đang có 4 dây chuyền công suất 11,4 triệu tấn xi măng/năm, đã đầu tư xong, nhưng chưa đưa vào vận hành vì không tiêu thụ được sản phẩm.

Nhìn chung, trong 6 tháng vừa qua, ngành xi măng vẫn chưa khá hơn so với cùng kỳ năm 2023 do tiếp tục chịu ảnh hưởng bởi nhu cầu yếu khi thị trường BĐS chưa có dấu hiệu phục hồi, các dự án đầu tư công triển khai chậm, nguồn cung xi măng vượt xa so với cầu; việc áp dụng cầu cạn cao tốc bằng bê tông cốt thép còn hạn chế, giải pháp sử dụng xi măng để gia cố, ổn định nền đất chưa được áp dụng.

Bên cạnh đó, các yếu tố bất khả kháng liên quan đến giá nhiên liệu, năng lượng tăng cao, đặc biệt giá than. Sự tăng giá năng lượng kéo theo tăng giá vận tải, trong khi chi phí vận tải của ngành xi măng ảnh hưởng lớn đến giá thành và giá bán sản phẩm. Mặt khác, DN xi măng trong nước vẫn phải chịu bất lợi khi thuế xuất khẩu clinker tăng từ 5% lên 10% và không được áp dụng luật thuế giá trị gia tăng.

Ngoài ra, kênh xuất khẩu cũng thu hẹp khi Trung Quốc vốn là thị trường nhập khẩu nhiều nhất xi măng, clinker Việt Nam, hiện cũng đang đẩy mạnh xuất khẩu, vì thế xi măng Việt Nam càng khó cạnh tranh. Hơn nữa, giá xuất khẩu clinker hiện rất thấp, chỉ 31 - 32 USD/tấn, trong khi cùng kỳ năm trước 38 - 39 USD/tấn.

Thêm nữa, việc cạnh tranh nội bộ giữa các DN tại nội địa cũng ngày càng gay gắt, nhiều DN phải bán dưới giá thành sản xuất, tạo áp lực càng lớn trong tiêu thụ của các DN thuộc VICEM.

Những nguyên nhân trên khiến tiêu thụ xi măng trong nước và xuất khẩu 6 tháng qua bị sụt giảm, tồn kho tăng cao, một số nhà máy phải giảm năng suất hoặc dừng lò để hạn chế đổ clinker ra bãi, làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh.

Bên cạnh đó, tài chính cũng đang là vấn đề lớn với các DN trong ngành này. Đáng chú ý, dòng tiền để trả nợ tổ chức tín dụng và chi phí nguyên, nhiên liệu đầu vào rất khó khăn. Nhiều nhà máy xi măng sản xuất không hiệu quả, dẫn đến thua lỗ, nợ xấu.

Tình hình tiêu thụ khó khăn là vậy, nhưng giá xi măng hiện tại trên thị trường vẫn đang neo ở mức khá cao và chưa có dấu hiệu giảm kể từ năm 2022 tới nay.

Hiệp hội Xi măng Việt Nam cho rằng, ngành xi măng đang gặp khó khăn rất lớn trong sản xuất và tiêu thụ, có nguy cơ đưa nhiều DN đến mức phá sản hoặc phải bán một phần cho nước ngoài. Giai đoạn này, ngành xi măng đang chịu áp lực lớn, khi khả năng hấp thụ của nền kinh tế trong nước kém.

Trước tình hình đó, tại Hội nghị trực tuyến về tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, tiêu thụ xi măng, sắt thép và VLXD vừa qua, Chủ tịch Hiệp hội Xi măng Việt Nam Nguyễn Quang Cung đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành có giải pháp để tăng lượng tiêu thụ xi măng nội địa thông qua việc khuyến khích sử dụng xi măng làm cao tốc, cầu cạn ở những vùng có địa hình đất yếu như ĐBSCL, một số khu vực tại miền Trung, miền núi. Đẩy mạnh việc gia cố nền đường bằng xi măng thay thế cho công nghệ truyền thống đắp nền cao tốc bằng đất, cát hiện nay để tăng tuổi thọ công trình.

Kiến nghị các ngân hàng giãn nợ vay đầu tư, giảm lãi suất cho các DN xi măng, tăng hạn mức vay vốn lưu động, không khuyến khích đầu tư FDI vào ngành xi măng vì DN trong nước đã làm chủ được công nghệ.

 

Cát xây dựng: Cầu lớn - Cung khó khăn

Trái ngược với thực trạng cung vượt cầu của ngành xi măng, thép,… cát xây dựng lại khó khăn do nguồn cung khan hiếm.

Trong 6 tháng qua, tình hình giá cát xây dựng trong nước liên tục biến động mạnh, khiến nhiều nhà thầu thi công khó khăn trong việc tính dự toán chi phí và chịu tổn thất lớn do trượt giá.

Hiện giá cát tại các tỉnh phía Nam có xu hướng tăng mạnh hơn khu vực phía Bắc và Trung. Do các tỉnh phía Nam đang triển khai đồng loạt nhiều dự án giao thông lớn nên nguồn cát đắp nền luôn trong tình trạng khan hiếm.

Điều này đã khiến tương quan giá cát bình quân tại khu vực miền Nam thường cao hơn các tỉnh miền Bắc và miền Trung từ 1,3 - 1,5 lần.

Cát dùng để san lấp không chỉ khan hiếm mà còn tăng vọt từ 190.000/m3 lên 285.000/m3 chưa thuế GTGT tại khu vực TP.HCM khiến nhiều dự án giao rơi vào tình cảnh khó khăn, nguy cơ bị chậm tiến độ.

Theo khảo sát, giá cát san lấp tại Đồng Nai, Tiền Giang và An Giang… loại cát san lấp tạp chất dưới 15% có thể dùng đắp nền đường, nếu về đến TP.HCM cũng dao động hơn 285.000 đồng/m3.

Nếu so với thời điểm tháng 10/2023, giá cát san lấp hiện tại cùng loại tiêu chuẩn tăng gần 50%, gây tổn thất nặng nề cho các nhà thầu thi công, thậm chí nhiều dự án phải tạm dừng thi công vì chưa có phương án đảm bảo đủ khối lượng cát.

Hiện giá cát ở Quảng Ngãi khi được chở đến công trình dao động từ 450.000 - 500.000 đồng/m3

Được biết, Quảng Ngãi là một trong những tỉnh có trữ lượng cát lớn nhất cả nước, tuy nhiên, ít mỏ được cấp phép, nhiều DN trúng đấu giá mỏ cát tăng gấp hàng trăm lần so với giá khởi điểm, nên buộc phải bán giá cao.

Hiện giá cát ở Quảng Ngãi khi được chở đến công trình, dao động từ 450.000 - 500.000 đồng/m3, riêng huyện đảo Lý Sơn 600.000 đồng/m3.

Giá cát tăng, khiến các DN trúng thầu dự án do Nhà nước làm chủ đầu tư từ các năm trước phải chịu thiệt hại tiền tỉ vì giá cát thực tế tăng vọt so với dự toán (giá dự toán khoảng 180.000 đồng/m3).

Phần tăng này, các nhà thầu không biết hạch toán vào đâu, vì khi quyết toán công trình, giá cát chỉ được tính theo công bố của cơ quan thẩm quyền chứ không theo giá thực tế. Nhiều người dân cũng e ngại xây nhà... vì giá cát tăng gấp nhiều lần.

Hiện tại, ba mỏ cát lớn ở Quảng Ngãi là Tịnh An - Nghĩa Dũng, An Tráng (Nghĩa Thắng) và Đồng Xuân 2 (Hành Thiện), giá cát tại mỏ dao động từ 318.000 - 356.000 đồng/m3, cao gấp rưỡi so với thông báo giá của Sở Xây dựng.

Giá cát tại mỏ ở Quảng Ngãi cũng tăng gấp hai lần so với giá cát được cấp phép ở tỉnh Bình Định; cao hơn 10% so với các mỏ ở Quảng Nam gần Khu Kinh tế Dung Quất, khiến một số DN ở gần khu kinh tế này phải ra Quảng Nam mua cát.

Có thể thấy, thời gian qua, khó khăn về nguồn cung cát đắp nền luôn hiện hữu ở tất cả các công trường thi công đường cao tốc. Ngoài ra, theo phản ánh từ nhiều nhà thầu, quá trình triển khai các thủ tục khai thác mỏ cát mất rất nhiều thời gian, việc cho phép nâng công suất các mỏ tại các địa phương còn chậm, ảnh hưởng đến tiến độ thi công, đặc biệt là các dự án cần hoàn thành vào cuối năm 2025.

Từ những khó khăn trên, phương án mở rộng thí điểm sử dụng cát biển, tro xỉ thải của các nhà máy nhiệt điện làm vật liệu san lấp là giải pháp lâu dài. Còn trước mắt, nhiều DN buộc phải nhập cát giá cao từ Campuchia về để đảm bảo tiến độ cho các dự án đang triển khai.

6 tháng qua, vấn đề lớn nhất đang kìm chế sự phát triển ngành VLXD là do tình hình BĐS vẫn chưa thực sự hồi phục. Ngoài ra, giá VLXD cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố của thị trường nên có diễn biến phức tạp, tăng, giảm đan xen, gây khó khăn, tổn thất cho các DN xây dựng cũng như nhà kinh doanh trong lĩnh vực này.

Theo các chuyên gia nhận định, tình hình ngành VLXD sẽ khả quan hơn trong giai đoạn 6 tháng cuối năm. Cơ hội sẽ xuất hiện khi các thông tin tích cực về đảm bảo tiến độ hoàn thiện các văn bản hướng dẫn cùng thời điểm hiệu lực của Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh BĐS, cũng như các cơ chế đặc thù áp dụng cho một số địa phương sẽ giúp giải quyết những khó khăn về nguồn cung nguyên VLXD.

Những ách tắc do khó khăn về pháp lý của nhiều dự án BĐS và thiếu nguồn cung nguyên vật liệu có thể sớm được tháo gỡ. Đây sẽ là những yếu tố tạo đà cho DN ngành VLXD bứt phá vượt qua giai đoạn khó khăn như hiện tại.

Hơn nữa, những tín hiệu tích cực về ổn định chính trị, môi trường đầu tư tốt, cũng như các cam kết của nhà đầu tư nước ngoài, nguồn vốn FDI kỳ vọng sẽ tiếp tục được triển khai, các dự án hạ tầng cũng như BĐS sẽ khởi động nhộn nhịp trở lại, tạo đà bứt phá cho thị trường VLXD nói chung trong giai đoạn 6 tháng cuối năm nay.

Ông Tống Văn Nga - Chủ tịch Hội Vật liệu xây dựng Việt Nam cũng cho rằng, để khơi thông đầu ra cho ngành VLXD, mấu chốt phải đẩy nhanh tốc độ xây dựng, tăng tốc giải ngân đầu tư công, thúc đẩy thị trường BĐS với trọng tâm là các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, từ đó dần gỡ khó cho ngành VLXD.

Trước những khó khăn chung của ngành VLXD, Bộ Xây dựng đã đưa ra nhiều giải pháp đẩy mạnh đầu tư công, tháo gỡ khó khăn cho thị trường BĐS, nhà ở, tăng cường triển khai xây dựng đề án đầu tư ít nhất 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội cùng các giải pháp tăng sử dụng cầu cạn bê tông cốt thép với dự án đường bộ cao tốc, sử dụng công nghệ gia cố đất bằng xi măng, sử dụng đường bê tông xi măng cho xây dựng các công trình giao thông, đặc biệt ở những vùng có yêu cầu thoát lũ, vùng đất yếu và những vùng thiếu vật liệu đắp nền đường. Cùng với đó, tháo gỡ khó khăn về tài chính, cơ cấu nợ và các khoản vay.

Ngày 15/6 vừa qua, tại Hội nghị trực tuyến về tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, tiêu thụ xi măng, sắt thép và VLXD, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã chỉ đạo các Bộ, ngành cần kiểm soát vấn đề nhập khẩu, đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là xây dựng các công trình tiêu thụ nhiều VLXD trong nước, đồng thời đề ra các cơ chế, chính sách để khuyến khích như giảm thuế, phí, lệ phí…

Liên quan tháo gỡ khó khăn tài chính, Thủ tướng giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam rà soát, đánh giá, sửa đổi các quy định về khoanh nợ, giãn nợ, hạ lãi suất ngân hàng đối với các khoản nợ của các doanh nghiệp ngành vật liệu xây dựng cho phù hợp.

Tuy nhiên, nhu cầu VLXD từ đầu tư công chưa thể bù đắp được lượng dư cung hiện nay. Vì vậy, bản thân doanh nghiệp cũng cần đầu tư nâng cấp, cải tạo chiều sâu đối với công nghệ, thiết bị của các nhà máy sản xuất hiện có để tiết giảm chi phí sản xuất, tiết kiệm năng lượng, tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường.

Mặt khác, bản thân từng DN phải đa dạng hoá sản phẩm VLXD đáp ứng nhu cầu thị trường; rà soát, cắt giảm chi phí sản xuất đối với nguyên liệu, nhiên liệu than, điện, dầu, khí đốt; đổi mới, áp dụng công nghệ sản xuất và phương thức quản lý hiện đại, nâng cao năng suất, chất lượng, giảm giá thành sản phẩm; áp dụng giải pháp nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng trong sản xuất, tận dụng nguồn nhiên liệu giá rẻ từ phế thải từ các ngành khác để hạ chi phí sản xuất.

Đặc biệt, DN cần cơ cấu lại nguồn vốn, tiết giảm chi phí để đảm bảo dòng tiền trả nợ ngân hàng và chi phí nguyên, nhiên liệu đầu vào, nhân công và chi phí khác trong sản xuất… Bên cạnh đó, DN cần phải tăng cường khâu tiếp thị, linh hoạt mở rộng, mở rộng thị trường nội địa, tìm kiếm thị trường xuất khẩu mới để tăng tiêu thụ sản phẩm.

Theo các chuyên gia nhận định, tình hình ngành VLXD sẽ khả quan hơn trong giai đoạn 6 tháng cuối năm, nhưng không nhiều.

Nhìn chung, thị trường VLXD còn phụ thuộc rất nhiều vào các “lực đẩy chính sách” để khơi thông. Thế nhưng, một điểm cốt tử trong vận hành là độ trễ của các chính sách. Thế nên, thị trường VLXD Việt Nam mảng sáng vẫn chỉ trông vào trung hạn, còn  trong ngắn hạn, thị trường 6 tháng cuối năm 2024 vẫn chưa thật sự rõ ràng!