
Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 144/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 2 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Xây dựng, có hiệu lực thi hành từ 01/7/2025. Trong đó, tại nội dung phân cấp quản lý lĩnh vực hàng hải, giao thông đường thủy nội địa, Nghị định trên quy định Bộ Xây dựng, Cục Hàng hải và Đường thủy Việt Nam dừng thực hiện một số nhiệm vụ, thẩm quyền quản lý nhà nước về cảng biển, cảng cạn.
Cụ thể: Bộ Xây dựng, Cục Hàng hải và Đường thủy Việt Nam không thực hiện việc đặt tên, đổi tên cảng biển, cảng dầu khí ngoài khơi, bến cảng, cầu cảng, bến phao và khu nước, vùng nước quy định tại Điều 10 Nghị định số 58/2017/NĐ-CP ngày 10/5/20217 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Bộ Luật Hàng hải Việt Nam về quản lý hoạt động hàng hải (đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 34/2025/NĐ-CP).
Thay vào đó, việc đặt tên, đổi tên các loại cảng trên do chủ đầu tư hoặc cơ quan, tổ chức có liên quan thực hiện phù hợp với nguyên tắc quy định tại Điều 9 Nghị định số 58/2017/NĐ-CP và phải thông báo bằng văn bản cho các cơ quan quản lý chuyên ngành hàng hải, đường thủy nội địa để phục vụ công tác quản lý.
Cùng đó, Bộ Xây dựng, Cục Hàng hải và Đường thủy Việt Nam không thực hiện thủ tục gia hạn hoạt động của kết cấu hạ tầng cảng biển tạm thời quy định tại khoản 4 Điều 25 Nghị định số 58/2017/NĐ-CP. Cục Hàng hải và Đường thủy Việt Nam không thực hiện công bố đóng bến cảng, cầu cảng, bến phao và khu nước, vùng nước quy định tại Điều 17 Nghị định số 58/2017/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 69/2022/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực hàng hải và Nghị định số 34/2025/NĐ-CP)
Cục Hàng hải và Đường thủy Việt Nam, cảng vụ hàng hải không thực hiện thủ tục đưa báo hiệu vào sử dụng quy định tại Điều 41 Nghị định số 58/2017/NĐ-CP. Cảng vụ hàng hải không thực hiện thủ tục chấp thuận tháo bỏ niêm phong hoặc việc bơm thải các chất thải, nước bẩn qua những van hoặc thiết bị quy định tại điểm a khoản 2 Điều 118 Nghị định số 58/2017/NĐ-CP.
Trong nhóm nhiệm vụ, thẩm quyền cấp, cấp lại, thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh khai thác cảng biển: Cục Hàng hải và Đường thủy Việt Nam không thực hiện việc cấp, cấp lại, thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh khai thác cảng biển quy định tại Điều 10, Điều 11, Điều 12 Nghị định số 37/2017/NĐ-CP ngày 04/4/2017 của Chính phủ về điều kiện kinh doanh khai thác cảng biển (đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 69/2022/NĐ-CP). Đối với doanh nghiệp cảng, chỉ được kinh doanh khai thác cảng biển khi đáp ứng đủ điều kiện kinh doanh khai thác cảng biển theo quy định tại Nghị định số 37/2017/NĐ-CP và nghị định sửa đổi, bổ sung.
Về quản lý nhà nước đối với cảng cạn, Nghị định phân cấp UBND cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ, thẩm quyền thực hiện thủ tục đổi tên cảng cạn theo quy định tại Điều 24 Nghị định số 38/2017/NĐ-CP (trước đây thẩm quyền trên do Bộ GTVT (nay là Bộ Xây dựng) thực hiện). Cục Hàng hải và Đường thủy Việt Nam không thực hiện công bố tạm dừng hoạt động, đóng cảng cạn theo quy định tại khoản 3 Điều 22 Nghị định số 38/2017/NĐ-CP. Thay vào đó, khi cần thiết cá nhân, tổ chức tự thực hiện việc công bố tạm dừng hoạt động, đóng cảng cạn theo quy định tại Nghị định số 38/2017/NĐ-CP của Chính phủ.
Về hiệu lực chung của Nghị định số144/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 2 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Xây dựng, Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025 và hết hiệu lực từ 01/3/2027, nhưng trừ các trường hợp sau: Bộ, cơ quan ngang bộ báo cáo Chính phủ đề xuất và được Quốc hội quyết định kéo dài thời gian áp dụng toàn bộ hoặc một phần nghị định trên; Luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nghị định, nghị quyết của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ có quy định về thẩm quyền, trách nhiệm quản lý nhà nước, trình tự, thủ tục quy định tại nghị định trên thông qua hoặc ban hành kể từ ngày 01/7/2025 và có hiệu lực trước ngày 01/3/2027 thì quy định tương ứng trong nghị định trên hết hiệu lực tại thời điểm các văn bản quy phạm pháp luật đó có hiệu lực.