
Sáng 06/5, tại Hà Nội, Trường Đại học Giao thông vận tải tổ chức Tọa đàm với chủ đề: “Các vấn đề tiêu chuẩn kỹ thuật cho đường sắt hiện đại - Nhu cầu thực tiễn tại Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế”.
Thúc đẩy đào tạo phục vụ phát triển đường sắt hiện đại
Tọa đàm là sự kiện có ý nghĩa thiết thực trong bối cảnh Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển bứt phá trong lĩnh vực đường sắt với nhiều chủ trường, quyết sách chiến lược được Đảng, Quốc hội và Chính phủ xác lập nhất quán, mạnh mẽ bằng việc ban hành 03 Nghị quyết: (1) Nghị quyết số 172/2024/QH15 về chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam; (2) Nghị quyết số 187/2025/QH15 về tuyến Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng; (3) và Nghị quyết số 188/2025/QH15 về thí điểm cơ chế chính sách phát triển hệ thống đường sắt đô thị tại Hà Nội và TP.HCM; cùng hàng họt các cơ chế, chính sách mới nhằm mở đường cho các giải pháp đột phá về tiêu chuẩn, công nghệ và huy động nguồn lực kinh tế - kỹ thuật, tạo hành lang pháp lý và thực tiễn vững chắc để ngành đường sắt cất cánh.
Tại phiên họp thứ hai của Ban Chỉ đạo các công trình, dự án đường sắt quan trọng quốc gia do Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì ngày 26/4, Thủ tướng đặt trọng tâm vào yêu cầu hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, là những điều kiện tiên quyết để triển khai đồng bộ, hiệu quả và hiện đại hóa các dự án đường sắt trọng điểm của quốc gia. Trước mắt, tuyến Hải Phòng - Hà Nội - Lào Cai dự kiến khởi công cuối năm 2025 và kế tiếp khởi công tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam vào cuối năm 2026.

PGS.TS Nguyễn Văn Hùng - Hiệu trưởng Trường Đại học Giao thông vận tải cho biết, với tinh thần tiên phong, trách nhiệm và thích ứng, Trường Đại học Giao thông vận tải đã chủ động triển khai nhanh chóng, tổ chức thực hiện đồng bộ nhiều sáng kiến mới nhằm thúc đẩy quá trình đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ phục vụ phát triển lĩnh vực đường sắt hiện đại.
Trong đó, tháng 3/2025, Nhà trường công bố 05 Chương trình đào tạo kỹ sư chuyên ngành đường sắt hiện đại, đánh dấu bước tiến quan trọng trong đổi mới nội dung và phương pháp đào tạo, đáp ứng trực tiếp nhu cầu thực tiễn từ các dự án đường sắt quy mô lớn của quốc gia.
Nhằm học hỏi mô hình thành công của các quốc gia phát triển, thảo luận về khả năng áp dụng kinh nghiệm quốc tế vào điều kiện Việt Nam, từ năm 2024 đến nay, Nhà trường phối hợp với đối tác quốc tế đến từ Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Cộng hòa Liên bang Đức, tổ chức chuỗi tọa đàm, hội thảo chuyên đề theo từng chủ đề cụ thể, từ thiết kế công trình, tiêu chuẩn kỹ thuật, công nghệ vật liệu đến giải pháp thi công và vận hành hệ thống đường sắt tiên tiến.
Nhà trường đồng thời thúc đẩy mô hình liên kết ba nhà: Nhà quản lý, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp (Triple Helix), nhằm đề xuất các chương trình khoa học công nghệ quy mô lớn phục vụ chiến lược phát triển đường sắt.
Chương trình KH&CN về hạ tầng đường sắt do Trường phối hợp với các đơn vị chức năng của Bộ Xây dựng và các doanh nghiệp: FECON, Thăng Long, Trung Chính, TEDISouth, ADCo xây dựng được Bộ GD&ĐT phê duyệt đưa vào danh sách tuyển chọn để triển khai thực hiện từ năm 2026.
Đặc biệt, với sự hỗ trợ của các cơ quan Bộ Xây dựng là Vụ KHCN, MT&VLXD và BQLDA Đường sắt, Nhà trường đã tiếp nhận và hoàn thành biên dịch 88 tiêu chuẩn về đường sắt điện khí hóa và 29 tiêu chuẩn về đường sắt tốc độ cao của Trung Quốc, là nỗ lực bước đầu nhằm chuẩn bị nền tảng hiểu biết kỹ thuật cho cộng đồng kỹ sư, cán bộ kỹ thuật trong nước trước khi chính thức bước vào các dự án lớn đang được gấp rút triển khai.
Chuẩn bị cho đầu tư và triển khai xây dựng các dự án
PGS.TS Lê Trung Thành - Vụ trưởng Vụ KHCN, MT&VLXD (Bộ Xây dựng) cho biết, theo định hướng phát triển theo Quy hoạch mạng lưới đường sắt Việt Nam thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050, mục tiêu đến 2030, tổng chiều dài mạng lưới đạt ~4.800 km, gồm 09 tuyến đường sắt mới, chủ yếu khổ tiêu chuẩn 1.435 mm, ưu tiên đầu tư tuyến Bắc - Nam tốc độ cao, đầu tư nâng cấp, hiện đại hóa tuyến hiện hữu Bắc - Nam.

Tầm nhìn đến 2050, tổng chiều dài khoảng ~6.300 km, hoàn thành toàn tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, khai thác chở khách với vận tốc 320 km/h. Phát triển đường sắt kết nối cảng biển, KKT, KCN, sân bay quốc tế, xây dựng các tuyến đường sắt vành đai, đô thị, trong đó có metro Hà Nội và TP.HCM.
Một số dự án chủ yếu sẽ được triển khai sớm gồm: (1) Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam; (2) Các tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội - Lạng Sơn, Móng Cái - Hạ Long (Quảng Ninh); (3) các dự án đường sắt đô thị tại TP Hà Nội, TP.HCM.
Các công trình, dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đường sắt mới có quy mô, tổng mức đầu tư rất lớn, yêu cầu cao về kỹ thuật, đặc biệt đường sắt tốc độ cao lần đầu tiên triển khai tại Việt Nam. Để triển khai các Dự án này, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt cho các dự án.
Hiện nay, Bộ Xây dựng đã và đang thực hiện một số nhiệm vụ để chuẩn bị đầu tư và triển khai xây dựng các dự án như: (1) Xây dựng Nghị định quy định tiêu chí lựa chọn tổ chức, doanh nghiệp nhà nước được giao nhiệm vụ được giao nhiệm vụ đặt hàng cung cấp dịch vụ, hàng hóa công nghiệp đường sắt;
(2) Xây dựng Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định về danh mục dịch vụ, hàng hóa công nghiệp đường sắt được giao nhiệm vụ hoặc đặt hàng.
(3) Xây dựng Nghị định hướng dẫn cho phép chủ đầu tư được triển khai thực hiện đồng thời việc lập, thẩm định, phê duyệt BCNCKT, thiết kế xây dựng sau thiết kế cơ sở.
(4) Xây dựng Đề án phát triển nguồn nhân lực xây dựng, vận hành đường sắt Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Thống nhất khung tiêu chuẩn kỹ thuật cho các dự án đường sắt
Tại Tọa đàm, đã có nhiều ý kiến phát biểu, thảo luận, chía sẻ của các chuyên gia, doanh nghiệp về kinh nghiệm nghiên cứu, ứng dụng các phương pháp quản lý; công nghệ và tiêu chuẩn về xây dựng hạ tầng, dầu máy và toa xe, hệ thống điện sức kéo, hệ thống tín hiệu điều khiển đường sắt tốc độ cao và khả năng áp dụng tại Việt Nam…

Chia sẻ kinh nghiệm về thực tiễn thực hiện ứng dụng chuyển đổi số cơ sở hạ tầng đường sắt, ông Trần Tấn Phúc - Chủ tịch HĐQT Cty CP Tư vấn Thiết kế cảng - kỹ thuật biển (Portcoast) khuyến nghị nên tập trung vào ứng dụng BIM-GIS, Digital Twin, IoT, AR/VR và dữ liệu số hóa trong thiết kế, thi công và vận hành công trình, góp phần thúc đẩy hiệu quả đầu tư và nâng cao chất lượng kỹ thuật trong ngành đường sắt.
Tại dự án Metro số 1 TP.HCM, Portcoast thực hiện mã hóa tài sản, tích hợp trực tiếp thiết bị vào mô hình BIM-GIS, dùng phần mềm IBM Maximo cho hệ thống AIM, kết nối với Autodesk BIM và Esri ArcGIS… giúp theo dõi thiết bị, lịch sử bảo trì, tối ưu quản lý tài sản và vận hành.
Đáng chú ý, chia sẻ về các vấn đề liên quan đến tiêu chuẩn kỹ thuật cho đường sắt trên thế giới, tại Việt Nam, PGS.TS Ngô Văn Minh (Trường Đại học Giao thông vận tải) cho biết, hệ thống tiêu chuẩn Trung Quốc khá đầy đủ, thực tiễn và cập nhật, cho phép áp dụng trên các tuyến đường sắt cao tốc quy mô lớn, kết hợp nhiều công nghệ và điều kiện địa chất khác nhau, có thể làm cơ sở tham khảo hoặc chuyển giao có chọn lọc cho Việt Nam khi xây dựng hệ tiêu chuẩn đường sắt cao tốc nội địa.
Còn theo TS Trần Khánh Lê - Trưởng phòng Thiết kế cầu đường sắt, SNCF Reseau (Cộng hòa Pháp), nghiêu cứu tiêu chuẩn đường sắt tại châu Âu cho thấy, có một bộ tiêu chuẩn bắt buộc về tính tương thích và liên vận của hệ thống đường sắt châu Âu (TSI). Mặc dù vậy, Tiêu chuẩn ngành của nước Pháp (SNCF), vẫn duy trì hệ tiêu chuẩn riêng bên cạnh Eurocode và TSI.

Chia sẻ về tiêu chuẩn kỹ thuật của hệ thống đường sắt đô thị Việt Nam hiện nay, TS Phan Hữu Duy Quốc - Chủ tịch HĐQT Tổng công ty Xây dựng số 1 (CC1) đánh giá, vấn đề nổi cộm của hệ thống đường sắt đô thị Việt Nam hiện nay là thiếu tính thống nhất về tiêu chuẩn kỹ thuật.
Các dự án đang sử dụng tiêu chuẩn khác nhau tùy theo nguồn tài trợ (Nhật, Pháp, Trung...), dẫn đến lãng phí tài nguyên, khó khăn trong vận hành, bảo trì, đào tạo nhân lực và thiếu khả năng kết nối liên thông.
TS Phan Hữu Duy Quốc cho rằng, sẽ có tác động và rủi ro nhất định nếu tiếp tục duy trì cách làm hiện nay như: Không thể đạt mục tiêu phát triển mạng lưới metro theo kế hoạch đến 2030-2045; Khó thẩm định dự án, thiếu chuyên gia, tạo cạnh tranh không lành mạnh giữa các nhà thầu.
Từ đó, TS Phan Hữu Duy Quốc đề xuất thay đổi cách làm, trong đó then chốt là thống nhất khung tiêu chuẩn kỹ thuật; Ưu tiên sử dụng hệ tiêu chuẩn quốc tế đã được kiểm chứng thay vì xây dựng mới từ đầu (tốn kém và mất thời gian).
Theo đó, Việt Nam có thể lựa chọn phương án áp dụng hệ tiêu chuẩn châu Âu (Eurocode) được cho là phù hợp nhất hiện nay và được sử dụng rộng rãi, có sẵn tài liệu, không rào cản ngôn ngữ lớn; không thiên vị quốc gia, thúc đẩy huy động nhân lực quốc tế; đồng thời cũng là phù hợp định hướng Đề án số 198/QĐ-TTg của Chính phủ về hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật xây dựng.