Đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng và tạo sự cạnh tranh lành mạnh cho thị trường VLXD

14:47 26/11/2024
Hiện nay, công tác quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa VLXD vẫn chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra làm ảnh hưởng đến chất lượng công trình xây dựng. Mặt khác, ngành VLXD đang phải đối mặt với sự cạnh tranh không lành mạnh từ các sản phẩm kém chất lượng, hàng giả và hàng nhái. Do đó, Thông tư 10/2020/TT-BXD ra đời nhằm giải quyết những tồn tại trên và tạo sự cạnh tranh lành mạnh cho thị trường VLXD…

Thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công tác kiểm soát chất lượng sản phẩm VLXD, nhằm đảm bảo chất lượng công trình xây dựng và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Người dân sẽ được sử dụng những sản phẩm đạt chất lượng theo quy định. Ngày 01/11/2024 vừa qua, Bộ Xây dựng đã ban hành Thông tư 10/2020/TT-BXD (sau đây gọi  là Thông tư 10), có hiệu lực từ ngày 16/12/2024 sẽ giải quyết những khó khăn, tồn tại và tạo điều kiện thúc đẩy ngành VLXD phát triển bền vững.

Để hiểu rõ hơn về những tác động tích cực của Thông tư 10 đối với ngành VLXD nói chung, cũng như quyền lợi của người tiêu dùng nói riêng. Biên tập viên Tạp chí Xây dựng đã có buổi trao đổi với Ông Lê Trung Thành - Vụ trưởng Vụ Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng) xung quanh nội dung này.
 

   
Ông Lê Trung Thành - Vụ trưởng Vụ Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng)

 

♦ Sự cạnh tranh không lành mạnh đang là một trong những khó khăn lớn và tác động tiêu cực đến ngành VLXD. Với vai trò là nhà quản lý, ông cho biết giải pháp tốt nhất để giải quyết thực trạng này trong thời gian tới là gì?

Ông Lê Trung Thành: Ngành VLXD, đặc biệt là các sản phẩm chủ lực như xi măng, gạch ốp lát, thiết bị vệ sinh và kính… đã gặp nhiều khó khăn trong việc sản xuất và tiêu thụ. Bộ Xây dựng đã tổng kết và báo cáo tình hình lên Thủ tướng Chính phủ. Thủ tướng cũng đã chủ trì hội nghị toàn quốc để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ vật liệu xây dựng bền vững.

Hiện nay, ngành VLXD đang phải đối mặt với sự cạnh tranh không lành mạnh từ các sản phẩm kém chất lượng, hàng giả và hàng nhái. Những sản phẩm này đã xâm nhập vào thị trường và cạnh tranh không công bằng với các sản phẩm vật liệu xây dựng của Việt Nam, những sản phẩm đã được quốc tế công nhận, đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn chất lượng và xuất khẩu đi rất nhiều nước trên thế giới.

Để giải quyết tình hình này, Bộ Xây dựng đã thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công tác kiểm soát chất lượng sản phẩm VLXD, nhằm đảm bảo chất lượng công trình xây dựng và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Người dân sẽ được sử dụng những sản phẩm đạt chất lượng theo quy định.

Với thực trạng như vậy, Thông tư 10 sẽ giải quyết những vấn đề mấu chốt này. Thông tư này phân định đầy đủ các sản phẩm vật liệu xây dựng. Các sản phẩm thuộc nhóm 2 phải thực hiện công tác hợp quy, trong khi các sản phẩm nhóm 1 sẽ được kiểm soát chặt chẽ hơn. Thông tư này sẽ tăng cường công tác quản lý chất lượng sản phẩm vật liệu xây dựng từ trung ương đến các địa phương, đảm bảo rằng các sản phẩm chất lượng tốt được tiêu thụ đúng quy định pháp luật, còn những sản phẩm chất lượng kém, hàng giả, hàng nhái sẽ bị phân loại và xử lý vi phạm.

Mục tiêu là thúc đẩy năng lực sản xuất và thương hiệu quốc gia của các sản phẩm vật liệu xây dựng trên toàn quốc và ra thế giới.

♦ Ông có thể chia sẻ rõ hơn về những lợi ích của Thông tư 10 đối với người tiêu dùng?

Ông Lê Trung Thành: Sau khi Thông tư 10 được ban hành, người tiêu dùng sẽ được hưởng lợi lớn trong việc lựa chọn sản phẩm chất lượng. Theo Thông tư, tất cả các sản phẩm hàng hóa trên thị trường phải công bố rõ ràng về chất lượng. Đặc biệt, các sản phẩm thuộc nhóm 2 phải có giấy chứng nhận hợp quy, đảm bảo đáp ứng các quy chuẩn chất lượng. Người tiêu dùng có thể yêu cầu cung cấp giấy chứng nhận hợp quy và thông tin về nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm để yên tâm sử dụng. Sản phẩm nào không có giấy chứng nhận hợp quy hoặc không công bố tiêu chuẩn sẽ bị loại bỏ khỏi thị trường, giúp người tiêu dùng tránh được các sản phẩm kém chất lượng.

Ngoài ra, người tiêu dùng dễ dàng xác minh chất lượng sản phẩm khi đi mua VLXD. Đối với các thông tin về nguồn gốc xuất xứ, giấy chứng nhận hợp quy, và công bố tiêu chuẩn sản phẩm, các cơ sở kinh doanh phải cung cấp thông tin đầy đủ về ba yếu tố này. Ví dụ, nếu sản phẩm sản xuất tại Nhật Bản, phải có chứng nhận của đơn vị đánh giá sự phù hợp tại Việt Nam. Đối với sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc, người tiêu dùng cần kiểm tra giấy chứng nhận hợp quy để đảm bảo sản phẩm đạt chất lượng. Do đó, sau khi Thông tư 10 được ban hành, các cơ sở kinh doanh đều phải tuân thủ nghiêm ngặt và cung cấp đầy đủ thông tin về chất lượng sản phẩm, nếu không sẽ bị xử lý vi phạm. Vì vậy, quyền lợi người tiêu dùng sẽ luôn được đảm bảo.

Đặc biệt, người tiêu dùng có thể xác minh sản phẩm VLXD một cách nhanh chóng thông qua các quy định về truy xuất nguồn gốc sản phẩm của Bộ KH&CN. Quan đó, người tiêu dùng có thể yêu cầu người bán cung cấp thông tin về nguồn gốc xuất xứ, giấy chứng nhận hợp quy và công bố tiêu chuẩn sản phẩm. Các cửa hàng bán VLXD phải cung cấp đầy đủ thông tin này theo quy định pháp luật. Người tiêu dùng cũng có thể sử dụng các công cụ truy xuất nguồn gốc sản phẩm như mã QR để kiểm tra thông tin về sản phẩm trước khi quyết định mua.

♦ Có ý kiến cho rằng nên lùi thời hạn thực hiện Thông tư 10 quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa VLXD để các doanh nghiệp có sự chuẩn bị, vậy ý kiến của ông như thế nào?

Ông Lê Trung Thành:  Mục đích chính của Thông tư là Quy định về quản lý chất lượng sản phẩm VLXD trong 05 quá trình hoạt động, cụ thể: Sản xuất - Xuất khẩu - Nhập khẩu - Lưu thông trên thị trường - Sử dụng, để tăng cường công tác quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hoá VLXD. Từ đó, sàng lọc các sản phẩm, hàng hoá VLXD chất lượng tốt và các sản phẩm, hàng hoá VLXD chất lượng chưa tốt để quản lý, xử lý vi phạm (nếu có); chấn chỉnh các hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng làm ảnh hưởng đến chất lượng công trình, sinh hoạt của người dân.

Hiện nay, các ý kiến đề xuất lùi thời hạn thực hiện Thông tư chủ yếu là các doanh nghiệp nhập khẩu VLXD, còn các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu, kinh doanh lưu thông trên thị trường và sử dụng VLXD không có đề xuất lùi thời hạn thực hiện Thông tư. 

Trong quá trình xây dựng Thông tư, dự thảo đã được lấy ý kiến rộng rãi các cơ quan bộ, ngành, địa phương, các hiệp hội doanh nghiệp về VLXD, đăng tải 60 ngày trên Cổng Thông tin điện tử Bộ Xây dựng và Công Thông tin điện tử Chỉnh phủ. Bộ Xây dựng đã không nhận được ý kiến nào về thời hạn áp dụng Thông tư.

Thông tư 10 đã được ký ban hành và phổ biến rộng rãi từ ngày 01/11/2024. Theo đó, có 45 ngày trước khi Thông tư có hiệu lực (16/12/2024) để các doanh nghiệp nghiên cứu, thực hiện các điều khoản chuyển tiếp, cụ thể: “Điều 20. Điều khoản chuyển tiếp 1. Đối với các tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu hàng hóa vật liệu xây dựng đã được cấp Giấy chứng nhận hợp quy phù hợp Quy chuẩn kỹ thuật QCVN16:2023/BXD và Giấy chứng nhận còn hiệu lực thì được phép sử dụng Giấy chứng nhận hợp quy và dấu hợp quy cho đến khi hết hiệu lực của Giấy chứng nhận đó. 2. Đối với các lô hàng hóa vật liệu xây dựng đã hoàn thành thủ tục xuất khẩu tại các nước xuất khẩu (để nhập khẩu vào Việt Nam) trước ngày Thông tư này có hiệu lực thì được áp dụng theo các quy định trước đây.”

Như vậy, các doanh nghiệp nhập khẩu VLXD hoàn toàn có đủ thời gian để sử dụng các Giấy chứng nhận hợp quy còn thời hạn hoặc chuẩn bị các lô hàng hoàn thành thủ tục xuất khẩu tại các nước xong trước ngày 16/12/2024, sau đó vận chuyển hàng hoá về các cửa khẩu nước ta, thậm chí sau một vài tháng vẫn được áp dụng theo các quy định trước đây.

Vì vậy, đề xuất lùi thời hạn thực hiện Thông tư là không đủ cơ sở, việc triển khai Thông tư 10 đúng thời hạn sẽ giúp thị trường vật liệu xây dựng được ổn định, người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm, hàng hoá VLXD chất lượng tốt hơn và cũng như sớm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất VLXD trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.

♦ Trân trọng cảm ơn ông!

Bình luận