Chiều 30/11, tiếp tục chương trình làm việc kỳ họp thứ 8, Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam, với 443/454 đại biểu có mặt tán thành.
Đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam đi qua địa phận 20 tỉnh, thành
Theo đó, Dự án đường sắt tốc độ cao có tổng chiều dài tuyến khoảng 1.541km; điểm đầu tại ga Ngọc Hồi (Hà Nội), điểm cuối tại ga Thủ Thiêm (TP.HCM).
Đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam đi qua địa phận 20 tỉnh, thành: Hà Nội, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, TP.HCM.
Quốc hội quyết nghị đầu tư mới toàn tuyến đường đôi khổ 1.435mm, tốc độ thiết kế 350km/h, tải trọng 22,5 tấn/trục; 23 ga hành khách, 5 ga hàng hóa; phương tiện, thiết bị.
Đường sắt tốc độ cao vận chuyển hành khách, đáp ứng yêu cầu lưỡng dụng phục vụ quốc phòng, an ninh, có thể vận tải hàng hóa khi cần thiết.
Sơ bộ tổng nhu cầu sử dụng đất của dự án khoảng 10.827ha. Khi thực hiện dự án, dự kiến có khoảng 120.836 người tái định cư.
Đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam được đầu tư theo hình thức đầu tư công, với tổng mức đầu tư hơn 1,713 triệu tỉ đồng (tương đương hơn 67 tỉ USD).
Quốc hội quyết nghị, lập báo cáo nghiên cứu khả thi từ năm 2025, phấn đấu cơ bản hoàn thành dự án năm 2035.
Cho phép áp dụng một số cơ chế, chính sách đặc thù
Về các cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt triển khai đầu tư Dự án, nhiều ý kiến cho rằng, Dự án có vai trò quan trọng, mang tính chiến lược dài hạn, tác động sâu, rộng tới mọi mặt của nền kinh tế - xã hội nước ta và có quy mô rất lớn, yêu cầu về công nghệ kỹ thuật phức tạp, lần đầu tiên được triển khai thực hiện ở Việt Nam. Do đó, để bảo đảm tính khả thi, hiệu quả cho Dự án thì việc cho phép áp dụng một số cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt là rất cần thiết.
Thống nhất với ý kiến các đại biểu Quốc hội, UBTVQH đã chỉ đạo các cơ quan liên quan rà soát, hoàn thiện các cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt để bảo đảm tính khả thi, hiệu quả trong việc áp dụng triển khai thực hiện Dự án.
Đồng thời, giao Chính phủ ban hành Nghị định hướng dẫn chi tiết việc triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách này. Trong quá trình thực hiện, trường hợp tiếp tục cần phải bổ sung, điều chỉnh cơ chế, chính sách đặc thù để thực hiện, Chính phủ sẽ trình Quốc hội, UBTVQH xem xét quyết định.
Đối với chính sách 7, có ý kiến đề nghị quy định chính sách riêng về đào tạo làm chủ công nghệ và vận hành, khai thác Dự án sau khi hoàn thành.
Theo UBTVQH, nội dung về đào tạo nguồn nhân lực là một chương trình tổng thể, đồng bộ và được triển khai trong thời gian dài từ khi nghiên cứu cho đến quá trình vận hành, khai thác sau này. Tổng nhu cầu nguồn lực đào tạo khoảng 227.670 người.
Đồng thời, chính sách 8 về phát triển công nghiệp và chuyển giao công nghệ phù hợp với điều kiện và trình độ của ngành công nghiệp đường sắt Việt Nam hiện tại.
Việc quy định chính sách riêng về làm chủ công nghệ vận hành, khai thác Dự án sau khi hoàn thành không bảo đảm tính liên kết của một chương trình tổng thể do từng nội dung từ quản lý, thiết kế, thi công, vận hành đều liên quan đến nhau. Do đó, xin giữ như dự thảo Nghị quyết.
Để thực hiện Dự án, Thường trực Chính phủ yêu cầu cần phải rà soát bổ sung các cơ chế, chính sách đặc thù cần thiết nhằm huy động tối đa nguồn lực và cắt giảm, rút gọn các thủ tục đầu tư Dự án; bổ sung kiến nghị Quốc hội cho phép: "đối với những cơ chế chính sách phát sinh sau khi Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư Dự án, trường hợp chính sách phát sinh trong quá trình thực hiện thuộc thẩm quyền của Quốc hội giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định và trường hợp thuộc thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao Chính phủ quyết định; các cơ quan báo cáo Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại kỳ họp gần nhất".
Về phân cấp, phân quyền: Bộ GTVT bám sát chỉ đạo của Bộ Chính trị về việc phân cấp, phân quyền cho các Bộ, ngành, địa phương nhằm huy động nguồn lực của cả hệ thống chính trị, đóng góp của các Bộ, ngành, địa phương, nhất là trong công tác giải phóng mặt bằng, huy động nguồn lực thực hiện dự án và xây dựng các ga dừng, đỗ, giao Chính phủ xây dựng cơ chế chính sách thu hút nguồn lực đầu tư.