1. Đặt vấn đề
Vùng Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) bao gồm toàn bộ ranh giới hành chính đất liền và không gian biển của các thành phố: TP Hà Nội, TP Hải Phòng và 09 tỉnh: Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình. Vùng này được xem là một cực phát triển quan trọng với quy mô kinh tế đứng thứ 2 trong 6 vùng kinh tế trọng điểm quốc gia [4].
Trong đó, tốc độ đô thị hóa đạt trên 40%, nhiều đô thị được đầu tư hiện đại, đồng bộ về hạ tầng phục vụ nhu cầu về nhà ở và phát triển kinh tế của vùng. Bộ mặt các đô thị trong vùng đã có những thay đổi tích cực theo hướng văn minh, hiện đại.
Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa cũng làm gia tăng những hệ lụy gây ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội, môi trường ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người dân như vấn đề ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường đặc biệt là vấn đề ngập úng đô thị.
Các yếu tố chính góp phần vào những vấn đề này bao gồm: tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu (BĐKH) toàn cầu, tốc độ đô thị hóa và công nghiệp hóa diễn ra mạnh mẽ, các chính sách quản lý và thực thi pháp luật còn nhiều bất cập.
Điều này dẫn đến những áp lực lớn đối với môi trường đô thị, đặc biệt là các hệ thống cơ sở hạ tầng, trong đó phải kể tới hệ thống thoát nước không đáp ứng được năng lực tiêu thoát đã dẫn tới tình trạng ngập úng tại các đô thị Việt Nam nói chung và các đô thị vùng ĐBSH nói riêng.
2. Thực trạng ngập úng tại các đô thị vùng đồng bằng sông Hồng
a. Thực trạng cao độ nền và thoát nước mặt
Các đô thị vùng ĐBSH chịu ảnh hưởng lớn của chế độ thủy văn hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình đồng thời chịu ảnh hưởng của mực nước triều và nước dâng trong bão. Hiện nay, cốt nền của vùng ĐBSH nhìn chung khá thấp, giao động từ +0,4m đến +9.0m (khu vực cốt nền +9m chủ yếu các đô thị thuộc tỉnh Vĩnh Phúc và một số đô thị thuộc tỉnh Quảng Ninh).
Trong đó có khoảng 58,4% diện tích ĐBSH có cốt nền ở mức thấp hơn 2m. Hơn 72% diện tích đồng bằng ở cốt nền thấp hơn 3m. Bốn tỉnh Hải Phòng, Thái Bình, Hà Nam và Ninh Bình có trên 80% diện tích đất đai có cốt nền thấp hơn 2m.
Đối với tỉnh Quảng Ninh và các tỉnh ven biển ĐBSH, nếu mực nước biển dâng 80 cm, khoảng 1,59% diện tích của tỉnh Quảng Ninh và 8,4% diện tích vùng ĐBSH có nguy cơ bị ngập. Trong đó, tỉnh Thái Bình (25,06%) và tỉnh Nam Định (29,29%) là 2 tỉnh có nguy cơ ngập cao nhất. [9] Nếu mực nước biển dâng 100cm, 1,94% diện tích của tỉnh Quảng Ninh có nguy cơ bị ngập.
Nam Định là tỉnh có nguy cơ ngập cao nhất khoảng 43,67%, trong khi đó toàn ĐBSH là 13,20%. Như vậy, cốt nền của các đô thị trong vùng hầu như thấp hơn mực nước lũ, mực nước triều tính toán và mực nước biển dâng.
Điều này dẫn tới khó khăn cho việc tổ chức thoát nước mặt, chống ngập úng cho các đô thị. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp, tác động của nó sẽ làm tình hình ngập úng tại các đô thị ngày một nghiêm trọng thêm.
Các đô thị vùng ĐBSH chủ yếu phát triển theo hình thức lấn dần, có nghĩa phát triển từ các đô thị cũ. Trước đây tính toán xác định cốt nền các đô thị này khá thấp ứng với tần suất thiết kế (P%) tương ứng với cấp đô thị thấp (chủ yếu là thị xã hoặc thành phố loại III, loại II).
Chính vì vậy, sau khi phát triển, các khu đô thị mới được tính toán với tần suất cao hơn, điều này dẫn tới chênh lệch cốt nền giữa đô thị cũ và đô thị mới, gây khó khăn cho công tác tổ chức thoát nước mặt đồng thời gây ra ngập úng cục bộ.
Điển hình tại TP Hưng Yên, khu đô thị trung tâm có cao độ trung bình khoảng +2.50m đến +3.00m nhưng các khu đô thị mới có cao độ khoảng +3.50m. Tại Nam Định, hiện thành phố có các “điểm đen” về ngập úng gồm: Ngã tư đường Trần Hưng Đạo - Phan Đình Phùng, đường Trần Hưng Đạo (đoạn cổng chợ Mỹ Tho, đoạn kéo dài ven hồ Truyền thống), Hàn Thuyên - Hùng Vương và chùa Cả, Hàng Tiện, Hàng Cấp, chợ Diên Hồng, đầu đường Quang Trung (Trung tâm Đăng kiểm cũ), ngã 6 Năng Tĩnh - Văn Cao, đường Bến Thóc, Ngô Quyền, Máy Tơ.
Đặc biệt, tại Hà Nội, các khu đô thị phát triển mở rộng thuộc chuỗi đô thị phía Đông vành đai 4 có cao độ cao hơn nhiều so với khu dân cư hiện hữu gây nên tình trạng ngập úng trong khu dân cư mỗi khi mưa lớn.
Hệ thống thoát nước của các đô thị vùng ĐBSH chủ yếu dựa vào hệ thống tiêu thoát nước thủy nông. Toàn vùng ĐBSH có khoảng trên 500 cống dưới đê phục vụ cấp thoát nước, hơn 1700 trạm bơm chính phục vụ tưới tiêu được kết nối với hệ thống sông kênh và các hồ chứa lớn.
Tuy nhiên đây chỉ là hệ thống thoát nước tự nhiên. Hệ thống thoát nước tại các đô thị vùng ĐBSH hiện đã và đang xuống cấp. Để đánh giá khả năng thoát nước của một đô thị ta có thể dựa trên tiêu chí chiều dài bình quân đường cống trên đầu người.
Đối với các nước trên thế giới tỷ lệ trung bình là 2m/người, ở nước ta tỷ lệ này tại các đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng là 0,2-0,25 m/người, các đô thị còn lại chỉ đạt từ 0,05-0,08 m/người.
Theo đánh giá của các công ty thoát nước và môi trường đô thị tại các địa phương hiện nay: 50% tuyến cống đã bị hư hỏng, 30% tuyến cống cũ bị xuống cấp, chỉ khoảng 20% tuyến cống mới xây dựng là còn tốt. Đây là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ngập úng tại các đô thị vùng ĐBSH hiện nay. [12]
b. Thực trạng ngập úng
Bão, lũ lụt và nước biển dâng đang gây ra hậu quả ngập úng nghiêm trọng tại các đô thị thuộc vùng ĐBSH. Trong những năm gần đây các đô thị này đã phải hứng chịu những trận mưa, bão lũ có cường độ lớn, vượt xa khả năng chịu tải của hệ thống thoát nước.
Rất nhiều đô thị ngoài việc chịu tác động của mưa, bão còn chịu tác động của nước biển dâng, triều cường dẫn đến ngập lụt. Hậu quả trực tiếp là hệ thống thoát nước và các công trình đầu mối chống ngập lụt (trạm bơm, hồ điều hòa, đê bao...) bị hư hỏng, chi phí dành cho cho công tác duy tu, bảo dưỡng, nâng cấp tăng lên.
Theo số liệu khảo sát các trận mưa lớn nhất từ năm 2008 đến năm 2024 thì vũ lượng ngày càng lớn, thời gian và chiều sâu ngập tại các đô thị ngày càng tăng. (Bảng 1).
Bảng 1. Thống kê khu vực bị ảnh hưởng do lượng mưa tăng [12]
Đối với các đô thị vùng ĐBSH, cao độ nền đô thị thường thấp hơn mực nước sông, biển. Thoát nước chủ yếu tự chảy kết hợp với bơm tiêu nên khả năng chống ngập úng gặp nhiều bất lợi.
Đến thời điểm hiện tại tất cả các tỉnh, thành phố đã triển khai các dự án thoát nước và xử lý nước thải. Tuy nhiên chủ yếu sử dụng hệ thống thoát nước chung trên cơ sở cải tạo nâng cấp hệ thống thoát nước hiện có, vì vậy thiếu đồng bộ.
Các đô thị nhỏ nhưng hầu như chưa có hệ thống thoát nước, hoặc đã được xây dựng nhưng chưa đầy đủ và không đồng bộ. Đây là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng ngập úng nghiêm trọng tại các đô thị hiện nay.
3. Các nguyên nhân gây ra tình trạng ngập úng tại các đô thị vùng ĐBSH
a. Tác động của BĐKH làm thay đổi Điều kiện tự nhiên, khí tượng, thủy văn
Những nghiên cứu mới nhất của các nhà khoa học Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường cho thấy, BĐKH tác động đặc biệt mạnh mẽ tới sông ngòi, gây ra những thái cực trái ngược, mùa lũ nước dâng cao còn mùa hạn lại giảm sâu, điều này gây khó khăn cho công tác phòng chống ngập úng cho đô thị.
Với kịch bản phát thải khí nhà kính ở mức trung bình, thì đến năm 2040-2059, BĐKH dự kiến sẽ làm lưu lượng đỉnh lũ hàng năm ở các sông tăng khoảng 1-5% so với những năm 1980-1990. [2] Về lượng mưa, có thay đổi đáng kể khi nhiệt độ tăng.
Một số khu vực có lượng mưa tăng, trong khi đó một số khu vực có lượng mưa giảm. Xu thế chung là lượng mưa mùa mưa tăng, lượng mưa mùa khô giảm. Lượng mưa ngày lớn nhất tăng lên ở hầu hết các vùng khí hậu, trong đó có vùng ĐBSH.
Chính vì tác động của BĐKH làm thay đổi cơ bản về điều kiện tự nhiên, thủy triều, lũ thượng nguồn. Các tác động này dẫn tới hiện tượng gây ngập:
- Ngập do triều: Ngập úng có thể lớn hơn và nghiêm trọng hơn khi có sự kết hợp triều cường, lũ từ sông, từ các hồ ở thượng lưu xả về và mưa lớn diễn ra trên diện rộng sẽ gây hiệu ứng ngập sâu đô thị. Trong những ngày cuối tháng 5 và đầu tháng 6 vừa qua, tại các đô thị ven biển Quảng Ninh, Hải Phòng và Nam Định, triều cường kết hợp mưa lớn đã gây ra ngập úng nghiêm trọng.
- Ngập úng do mưa: Hiện nay lượng mưa ngày càng gia tăng, mưa có cường độ lớn, thời gian mưa dài trên một diện rộng và vũ lượng cao, vượt tần suất thiết kế của hệ thống thoát nước.
Tần suất xuất hiện những trận mưa này ngày càng nhiều hơn làm cho mức độ ngập úng ngày càng trầm trọng hơn. Đây được xem là nguyên nhân hàng đầu về ngập úng cục bộ tại các đô thị hiện nay.
Với hệ thống thoát nước đã xuống cấp, không được đầu tư đồng bộ, không được duy tu bảo dưỡng thường xuyên gặp những trận mưa lớn, kéo dài sẽ gây ra ngập úng cục bộ nhiều nơi cho thành phố.
Ví dụ tại TP Hà Nội, do hệ thống thoát nước của thành phố chỉ đáp ứng cho các trận mưa khoảng 50mm nên với những trận mưa trên 50mm thì xảy ra hiện tượng ngập úng. Năm 2008, Hà Nội đã phải hứng chịu trận lũ lịch sử khi lượng mưa đạt 400mm - 600mm. Toàn bộ thành phố chìm trong biển nước. Ngập úng gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản cho nhân dân Thủ đô. (Hình 1; hình 2)
- Ngập úng do lũ: Lũ trực tiếp từ các sông ở thượng lưu; lũ do xả nước từ các công trình hồ tưới tiêu, hồ thủy điện ở phía thượng nguồn và càng nguy hiểm hơn khi xảy ra đồng thời với mưa to và triều cường.
Đối với các đô thị vùng ĐBSH chủ yếu sử dụng đê bao kết hợp với hồ điều hòa và các trạm bơm để chống ngập cho đô thị. Với diễn biến lũ bất thường, năng lực hoạt động các công trình điều tiết còn hạn chế, khi lũ lớn xuất hiện kèm theo mưa lớn làm gia tăng mực nước của các con sông, gây ra lũ lụt cho các đô thị và vùng nông thôn.
Với khối lượng nước lớn dâng lên trong một thời gian ngắn và ở trên diện rộng thì ngập úng do lũ gây ra có sức tàn phá nghiêm trọng hơn rất nhiều so với ngập úng cục bộ tại các đô thị.
b. Năng lực hoạt động của hệ thống tiêu thoát nước đô thị
Năng lực hoạt động của hệ thống tiêu thoát nước đóng góp không nhỏ vào khả năng chống ngập úng cho đô thị. Hệ thống tiêu thoát nước các thành phố (hầu hết được xây dựng trên nền các đô thị cũ) chưa hoàn chỉnh và còn nhiều hạn chế.
Các thành phố trong quá trình phát triển nhưng do trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, tầm nhìn và vốn đầu tư khác nhau, nên đến nay hệ thống tiêu thoát nước chưa đáp ứng yêu cầu.
Thêm vào đó, các hệ thống tiêu thoát (cống tiêu, kênh tiêu...), nhất là ở khu nội thành, đã cũ lại hư hỏng, không hoặc chưa được duy tu, bảo dưỡng thường xuyên, cho nên khi có mưa (dù là mưa vừa) đã gây nên ngập úng nhiều khu vực của thành phố.
Nhiều đô thị đang triển khai đầu tư cải tạo, xây dựng mới hệ thống thoát nước nhưng tiến độ triển khai chậm, thiếu vốn, nhiều khu đô thị mới việc xây dựng hệ thống thoát nước thiếu đồng bộ, việc kết nối giữa hệ thống thoát nước mới và hệ thống thoát nước cũ còn nhiều bất cập, không liên thông.
Mặt khác, việc kết nối hệ thống thoát nước đô thị với hệ thống thủy lợi còn nhiều hạn chế. Ngoài ra, một số công trình đang trong quá trình xây dựng do không có những biện pháp dẫn dòng thi công tốt dẫn đến sự ngăn chặn dòng chảy gây ngập cục bộ xung quanh khu vực thi công.
c. Quy hoạch, quản lý phát triển đô thị
Hiện nay, các đô thị phát triển quá nóng, tốc độ đô thị hóa cao nhưng thiếu quy hoạch, tầm nhìn quy hoạch và quản lý phát triển đô thị còn hạn chế.
Quy hoạch không đồng bộ hoặc còn chủ quan, thiếu liên kết vùng; công tác dự báo chưa lường hết được BĐKH nên thông số thiết kế theo quy hoạch đã không còn phù hợp với tình hình thực tế khiến một số tuyến thoát nước dù mới được đầu tư cũng trở nên quá tải.
Việc xây dựng đô thị với mật độ cao tại vùng ven đô, vốn trước kia sử dụng cho mục đích nông nghiệp hoặc là những vùng thấp trũng chứa nước có chức năng điều hòa nước tự nhiên, là nguyên nhân dẫn tới ngập lụt.
Trong đô thị, diện tích hồ, ao và kênh, rạch bị san lấp hoặc thu hẹp diện tích khiến cho khả năng chứa nước tại chỗ của khu vực này giảm xuống. Quá trình đô thị hóa với nhu cầu xây dựng tăng cao đã và đang dẫn tới các sự biến mất của nhiều kênh, rạch, các hồ, ao trong đô thị. (Hình 3; hình 4)
Việc gia tăng diện tích bề mặt bị bê tông hóa tại các khu vực đô thị không chỉ làm gia tăng lượng nước mưa chảy trên bề mặt vì không thể thấm xuống lòng đất, làm giảm lượng nước ngầm mà còn tạo ra hiệu ứng đảo nhiệt.
Ví dụ tại TP Hà Nội, theo quy hoạch được duyệt năm 1981 thì diện tích TP Hà Nội khoảng 1000 km2, đến năm 2008 diện tích đã tăng lên 3.300 km2, gấp 3,6 lần so với diện tích cũ.
Diện tích đất xây dựng đô thị, khu công nghiệp và các khu chức năng khác gia tăng kéo theo diện tích san nền phục vụ cho hoạt động xây dựng đô thị tăng lên làm thay đổi dòng chảy, gia tăng bề mặt không thấm nước như mái nhà, bê tông, đường nhựa làm gia tăng thêm tình trạng ngập úng.
4. Đề xuất một số giải pháp giảm thiểu ngập úng cho các đô thị vùng ĐBSH
Ngày 04/5/2024, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 368/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch vùng ĐBSH, thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Theo đó, về quan điểm lập quy hoạch, ngoài việc phải bảo đảm phù hợp, thống nhất, đồng bộ với mục tiêu, định hướng của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của vùng và Quốc gia còn phải đảm bảo chiến lược tăng trưởng xanh và phát triển bền vững, trong đó hệ thống hạ tầng kỹ thuật phải được chú trọng ưu tiên, đặc biệt chú trọng các giải pháp giảm thiểu ngập úng nhằm đảm bảo an toàn và phát triển bền vững của đô thị. [4]
a. Giải pháp quy hoạch sử dụng đất tích hợp với quản lý rủi ro ngập lụt
Để giảm thiểu tối đa ảnh hưởng của ngập lụt tới sự hình thành và phát triển các đô thị, quy hoạch không gian cần tích hợp các giải pháp quản lý rủi ro ngập lụt nhằm định hướng cho quy hoạch sử dụng đất.
Cần thiết phải xây dựng bản đồ đánh giá rủi ro ngập lụt và các tai biến thiên nhiên để làm căn cứ lựa chọn đất xây dựng đô thị cũng như đề xuất các khu chức năng. Bản đồ đánh giá rủi ro ngập lụt là sản phẩm quan trọng của việc xác định các vị trí, nguy cơ xảy ra ngập lụt.
Bản đồ phản ánh các mối nguy hại gây ra bởi các trận lụt và các kịch bản BĐKH xảy ra tại các vùng dân cư, khu vực xác định. Bản đồ đánh giá rủi ro ngập lụt đưa ra các thông tin cơ bản về biên độ của ngập lụt không chỉ dưới các kịch bản BĐKH khác nhau mà còn thể hiện tính nhạy cảm của các yếu tố như sử dụng đất và vận hành của hệ thống thoát nước.
Với đặc điểm địa hình của các đô thị vùng ĐBSH thấp trũng, độ dốc nhỏ, rất khó khăn tổ chức thoát nước mặt chống ngập úng đô thị thì quá trình nghiên cứu phương án quy hoạch cần tích hợp với các giải pháp giảm thiểu ngập úng. (Hình 5).
Qua sơ đồ trên, có thể nhận thấy quá trình thiết kế quy hoạch cần khảo sát nghiên cứu số liệu khí tượng, thủy văn, địa hình, hiện trạng sử dụng đất và hiện trạng cảnh quan của không gian quy hoạch.
Việc phân tích thủy văn được thể hiện thông qua bản đồ đánh giá rủi ro ngập lụt. Đây là cơ sở quan trọng để đưa ra các khuyến cáo về các rủi ro có thể gặp phải do lũ lụt gây ra cho đô thị, từ đó đề xuất các giải pháp thiết kế quy hoạch không gian, sử dụng đất tích hợp với giải pháp giảm thiểu ngập úng, đảm bảo an toàn và phát triển bền vững cho đô thị. (Hình 6; hình 7).
b. Thiết kế đô thị thích ứng với nước
Các đô thị vùng ĐBSH chịu ảnh hưởng lớn của chế độ thủy văn hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Bên cạnh đó, cao độ nền các đô thị khá thấp so với mực nước lũ của các con sông nên giải pháp tiêu thoát nước cho đô thị phụ thuộc nhiều vào hệ thống tiêu thoát thủy nông ngoại vi đô thị.
Việc tận dụng ao hồ sông ngòi trong lưu vực kết hợp với tổ chức không gian kiến trúc cảnh quan và sử dụng đất sẽ giảm thiểu ngập úng cho các đô thị vùng ĐBSH.
Chính vì vậy, Thiết kế đô thị thích ứng với nước (Water sensitive urban design, WSUD) là một trong những giải pháp phù hợp với điều kiện tự nhiên, hiện trạng các đô thị vùng ĐBSH. WUSD kết hợp quản lý tuần hoàn nước trong đô thị với quy hoạch và thiết kế đô thị, với mục tiêu dựa trên hệ thống tự nhiên để giảm thiểu tác động tiêu cực đến chu trình tuần hoàn nước tự nhiên, mạng lưới kênh rạch ao hồ.
Thiết kế này tạo ra một giải pháp thay thế cho cách tiếp cận tiêu thoát nước truyền thống bằng cách tác động tại nguồn, từ đó giảm thiểu kích thước của hệ thống thoát nước hạ lưu.
Nó hạn chế bề mặt không thấm nước, tái sử dụng nước tại nguồn, tận dụng các lưu vực trữ nước để giảm thiểu lưu lượng nước mưa và kết hợp các hệ thống xử lý nước thải để loại bỏ các tác nhân gây ô nhiễm.
Hiện tại, dưới sự hỗ trợ của Sở Quy hoạch Kiến trúc TP.HCM và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đã xây dựng cẩm nang thiết kế đô thị thích ứng với nước với quy trình thiết kế 5 bước (Hình 8) và được áp dụng cho TP Thủ Đức.
Với nền địa hình và đặc điểm địa mạo, sông ngòi ao hồ có tính chất tương đồng với các đô thị vùng ĐBSH, WSUD cũng được xem là giải pháp tối ưu nhằm giảm thiểu ngập úng cho các đô thị vùng ĐBSH.
c. Giải pháp quản lý phát triển đô thị
- Lập cơ chế phối hợp giữa các cơ quan liên quan: Cần thiết phải lập cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý hệ thống thoát nước đô thị, quản lý hệ thống tiêu thủy lợi, quản lý tài nguyên nước, dự báo khí tượng thủy văn để thống nhất và có kế hoạch vận hành chung để đảm bảo lợi ích chung trong đó có mục đích tiêu thoát nước đô thị.
Ban hành quy định về quản lý thoát nước đô thị, Yêu cầu các chủ đầu tư cải tạo hoặc xây dựng công trình trong đô thị phải bố trí không gian chứa, thấm nước.
- Quản lý lưu vực thoát nước mưa: Cách tiếp cận quản lý lưu vực sông cần được quan tâm thích đáng với mục đích đánh giá tình trạng nguồn nước trong mối tương quan với quy hoạch sử dụng đất hiện tại và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong tương lai của toàn lưu vực, hướng tới không làm xấu hơn chất lượng nước, chế độ thủy văn so với trước khi phát triển.
Hơn nữa, kế hoạch quản lý lưu vực tổng thể, ngoài việc thực hiện kiểm soát đỉnh lũ, giảm khối lượng chảy tràn, chống ngập úng, bổ cập cho nước ngầm, còn đạt được các mục tiêu rộng lớn hơn như chống sạt lở sông, suối, phục hồi hành lang ven sông, bảo vệ môi trường sống, tài nguyên văn hóa và lịch sử, gia tăng tính thẩm mỹ, nơi vui chơi giải trí và chất lượng của cuộc sống trên toàn lưu vực sông.
5. Kết luận
Dưới sự tác động của BĐKH và sự gia tăng về tần suất và mức độ nghiêm trọng của ngập lụt tại các đô thị ở Việt Nam, đặc biệt là các đô thị vùng ĐBSH. Mưa lớn, ngập lụt đô thị đang dẫn đến thiệt hại kinh tế, bất ổn xã hội, và ảnh hướng đến sức khỏe người dân, phá hoại hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị.
Về lâu dài, các thách thức về khả năng chống chịu của đô thị được dự đoán sẽ tăng cao do những tác động của quá trình như đô thị hóa, kế hoạch khai thác sử dụng đất, và BĐKH.
Chính vì vậy, công tác phòng chống, giảm thiểu ngập úng cho các đô thị quan trọng hơn bao giờ hết. Các giải pháp phòng chống cần được đánh giá, tính toán từ giai đoạn lựa chọn địa điểm xây dựng đô thị, phân tích đánh giá các rủi ro liên quan đến tai biến thiên nhiên từ đó đề xuất các giải pháp đồng bộ từ quy hoạch đến xây dựng, quản lý và vận hành, hướng tới sự phát triển an toàn và bền vững cho các đô thị.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đoàn Cảnh, NCVCC(2007), Ứng dụng kỹ thuật sinh thái (Ecological Engineering) xây dựng hệ thống tiêu thoát nước đô thị bền vững (SUDS), góp phần phòng chống ngập úng, lún sụt và ô nhiễm ở TP.HCM. Báo cáo nghiệm thu đề tài nghiên cứu, Viện Sinh học nhiệt đới, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam;
2. Bộ Tài Nguyên và Môi trường. Kịch bản biến đổi khí hậu năm 2020;
3. Trần Thị Hường (1995), Chuẩn bị Kỹ thuật cho Khu đất xây dựng Đô thị, NXB Xây dựng;
4. Chính phủ. Quyết định số 368/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Hồng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050;
5. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Sở Quy hoạch - Kiến trúc TP.HCM (2023), Cẩm nang thiết kế Đô thị thích ứng với nước;
6. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) (2019), Những giải pháp thiên nhiên cho các đô thị tại Việt Nam - Thiết kế đô thị nhạy cảm về nước.
7. Tổ chức GIZ cộng hòa Liên Bang Đức. Hội thảo góp ý báo cáo “Giải pháp chính sách phát huy lợi thế vùng thúc đẩy cơ cấu lại các ngành kinh tế: Nghiên cứu trường hợp vùng Đồng bằng sông Hồng”.
8. Quốc hội. Luật Xây dựng số 50/2014/QH 2013;
9. GS.TS Lê Kim Truyền. Tư liệu trình bày chi tiết về điều kiện tự nhiên, đặc điểm khí tượng thủy văn dòng chảy, đặc điểm khí hậu, hiện trạng kinh tế xã hội trong lưu vực sông.
10. World bank Group (2021). Đánh giá lợi ích của các giải pháp dựa vào thiên nhiên để quản lý để quản lý ngập lụt đô thị tổng hợp ở vùng sông Mê Kông. Báo cáo tổng quan - tháng 1/2021.
11. Các văn bản pháp lý liên quan.
12. Các tư liệu khai thác từ nguồn Internet.