Ở Việt Nam, ngay từ khi hình thành các đô thị, hệ thống không gian, công trình công cộng đã có rồi. Ở Sài Gòn (TP.HCM hôm nay), khởi đầu đã có chợ Bến Thành, chợ Bến Sỏi, chợ Điều Khiển, chợ Tân Kiếng, chợ Lớn… rồi các công viên: Tao Đàn, Gia Định, Lê Văn Tám, Thảo Cầm viên… Tại Hà Nội, các khu chợ, công viên, vườn hoa công cộng cũng được tạo lập ngay từ những năm đầu thế kỷ 20… Khẳng định vậy để thấy, các khu vực công cộng luôn là hạt nhân đầu tiên của đô thị. Chính quyền thừa nhận nó thuộc sở hữu công cộng, giữ trách nhiệm quản lý nó cho dân đô thị, để không rơi vào tay tư nhân.
Trong một thời gian dài, ở Hà Nội, các khu vực đầm hồ, công viên đã bị “nhòm ngó”. Phần lớn các khu vực đầm hồ đã bị thôn tính, sử dụng sai mục đích; một số ít may mắn còn lại cũng đã bị thu hẹp rất nhiều, thiếu sự quan tâm, mất chức năng điều hòa và trở nên ô nhiễm.
Vì vậy, chính quyền các đô thị hiện nay nên coi bài học trao quyền sử dụng “một phần” công viên là sự cảnh báo về cách thôn tính từ từ của tư nhân đối với các công trình công cộng. Mà chợ và công viên là hai loại công trình thường bị nhắm tới đầu tiên.
Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng, những công trình công cộng là “báu vật” của thành phố. Trong bản đồ du lịch của hết thảy các đô thị trên thế giới chúng đều được vinh danh (chẳng ai đi tham quan cao ốc văn phòng hay những khu ở dày đặc người). Trong những công trình công cộng nổi tiếng thế giới phải kể đến vườn thú Berlin (Đức) diện tích 160ha nuôi giữ trên 5.000 đầu thú thuộc 800 loài, hay vườn thú Moskova (Nga) gần 200ha; khu vườn khổng lồ Luxembourg TP. Paris, công viên Rizan nổi tiếng của Philippine, công viên Ueno (Tokyo)… Nếu so Hà Nội - Thủ đô của quốc gia có dân số lớn hơn nhiều dân số nước Pháp, chúng ta chưa có một công viên nào có qui mô tương xứng (Công viên Thống Nhất chỉ 54ha).
Sự phát triển đô thị đồng nghĩa với phát triển về qui mô, đa dạng về loại hình công trình công cộng như: Quảng trường, công viên, bảo tàng… mà Nhà nước đại diện cho nhân dân làm chủ sở hữu, và không thể “xã hội hóa” theo kiểu cho tư nhân làm kinh doanh.
Các chuyên gia về đô thị cho rằng, để làm đẹp thành phố, để có được không gian chung cho tất cả mọi người, cần có sự phối hợp giữa chính quyền và người dân. Tất nhiên, trong hai đối tượng này thì chính quyền phải đi trước một bước. Người dân đi sau, nhưng chính người dân mới là người tạo nên “cái hồn” cho không gian công cộng.
Ở nhiều nước, người dân được chủ động và cùng nhau làm đẹp không gian công cộng quanh mình. Họ có thể cùng nhau sơn lại một tháp nước hay vẽ một bức tranh lên thành cầu để xóa đi cái xám xịt, nặng nề của các khối bê tông...
Tất nhiên, muốn tạo ra không khí này, không ai khác, chính quyền phải có cơ chế và động thái khuyến khích người dân tham gia vào. Một thành phố có nhiều khoảng không gian đô thị hấp dẫn không những làm cho chất lượng cuộc sống người dân được nâng lên mà còn làm cho thành phố thêm hấp dẫn trong mắt du khách. Hoạt động du lịch phát triển cũng là một cách tạo thêm nguồn thu cho thành phố, và như thế, rõ ràng đầu tư cho các khoảng không gian đô thị là một khoản đầu tư cực kỳ có lợi.
Nhìn chung, cho đến nay, đất và các công trình công cộng ở Hà Nội và TP. HCM đều ít, nhỏ so với qui mô dân số. Cũng có nghĩa là phúc lợi xã hội cho người dân còn thấp, chưa kể đã bị xà xẻo khá nhiều. Nếu không có các chính sách tích cực hoặc lãnh đạo thành phố bị cuốn vào “phong trào xã hội hóa”, vì những lợi ích kinh tế trước mắt - thì các công trình công cộng sẽ còn bị những cuộc “chuyển mục đích sử dụng” làm thu hẹp hơn nữa.
Soi vào thực tiễn, điều này không còn là cảnh báo. Bởi, ngay hiện tại, nhiều khi tiếng nói của các nhà chuyên môn trong lĩnh vực quy hoạch kiến trúc để giành lại từng khoảng không gian công cộng đô thị cho người dân đã không thể cản được đường đi của những dự án triệu đô.