Việt Nam sở hữu nhiều đô thị có số lượng di sản, di tích kiến trúc rất có giá trị ở nhiều cấp độ và quy mô như: Khu vực đô thị, quần thể di tích, nhóm di tích và công trình riêng lẻ có giá trị.
Trong đó, Huế và Hội An là hai thành phố di sản của Việt Nam có mặt trong danh sách các thành phố di sản của Tổ chức các thành phố di sản thế giới (OWHC).
Tuy nhiên hiện nay, dù nhiều đô thị tại Việt Nam có thể đạt được tiêu chí đô thị di sản, nhưng do các nguyên nhân chủ quan và khách quan, nên việc được thương hiệu đô thị di sản cũng như phát huy lợi thế trong phát triển kinh tế - xã hội còn chưa tương xứng với yêu cầu thực tế đặt ra.
Di sản đô thị - động lực quan trọng để phát triển bền vững bản sắc đô thị
Theo các tuyên ngôn của UNESCO 2016: Đô thị là nơi tương lai được sáng tạo. Nhưng thành phố cũng là nơi các di sản của quá khứ tồn tại, truyền cảm hứng cho những giấc mơ và kích thích tư duy mới.
Việc phục hồi đô thị dựa trên di sản có thể là động lực cho sự phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa và sáng tạo địa phương, cũng như là nam châm bổ sung cho du lịch bền vững…
Là nguồn tài nguyên quan trọng, di sản văn hóa đã trở thành động lực cho sự phát triển, khi được quản lý đúng cách có thể nâng cao khả năng sống của các khu vực xung quanh và duy trì năng suất trong môi trường toàn cầu đang thay đổi.
Tuy nhiên, các chính phủ cần có chiến lược rõ ràng và phương pháp hiệu quả để lập kế hoạch, thiết kế… thực hiện và quản lý các cơ sở này để tối ưu hóa sản xuất và tiêu thụ của họ tiềm năng, trong khi vẫn bảo tồn và nếu có thể, tăng cường chúng ý nghĩa văn hóa.
Thật không may, vẫn còn một khoảng cách giữa thực tiễn và lý thuyết về văn hóa quản lý di sản. Trong thực tế có một sự chậm trễ đáng kể trong việc chuyển sang một cách tiếp cận toàn diện, trong đó lập kế hoạch và quản lý quan tâm, hầu hết chắc chắn chỉ bằng chính quyền địa phương.
Về lý thuyết, thiếu nghiên cứu để xác định và thiết kế cách tiếp cận sáng tạo, và để ghi chép và phổ biến đã thực hiện các biện pháp tốt nhất cho quản lý cơ sở di sản văn hóa - dù ở nhiều nơi trên thế giới, hay trong cùng một khu vực địa lý văn hóa.
Theo Điều 1 của Công ước Di sản Thế giới, có 3 loại di sản văn hóa bất động sản di sản được phân biệt, là các di tích, nhóm tòa nhà và địa điểm (UNESCO, 2008).
Trong khi gần đây các cuộc tranh luận đã bùng lên về sự không phù hợp của điều này phân loại khi xem xét bản chất và giá trị của các thành phố lịch sử (Van Oers, 2006), hiện tại là Hướng dẫn hoạt động để thực hiện Thế giới Công ước Di sản, trong đoạn 14 của Phụ lục 3, công nhận 3 loại “các thị trấn và trung tâm thị trấn lịch sử”.
Chúng lần lượt là: (1) thị trấn không còn người ở, nghĩa là các địa điểm khảo cổ đô thị như Palmyra ở Syria, Angkor ở Campuchia, hay Tikal ở Guatemala; (2) những thị trấn lịch sử có người ở, như Djenne ở Mali, Ma Cao ở Trung Quốc, hay Baku ở Azerbaijan; và (3) những thị trấn mới của thế kỷ 20, chẳng hạn như Brasilia ở Brazil, Le Havre ở Pháp hoặc Tel Aviv ở Israel.
Do đó, khái niệm đô thị di sản cần được xem xét và đánh giá trên quy mô rộng hơn rất nhiều so với bản thân ranh giới tự nhiên hiện hữu của đô thị với nhiều nội dung bao gồm giá trị văn hóa, kiến trúc cảnh quan theo các quy mô: Làng, thị trấn, cụm thị trấn, khu vực đô thị, toàn đô thị, vùng đô thị trên phạm vi lãnh thổ lớn.
Với các đô thị, di sản luôn là nguồn tài nguyên quan trọng, động lực cho sự phát triển khi được quản lý khoa học và hợp lý, tạo cơ hội phát triển bền vững, có bản sắc trong bối cảnh toàn cầu hóa và đô thị hóa nóng hiện nay.
Theo các nghiên cứu, đối với cộng đồng và người dân bản địa, các di sản trong đô thị là một trong những nhân tố quan trọng hình thành nên "giá trị tinh thần nơi chốn", thiết lập với mối quan hệ tình cảm giữa di sản - đô thị và cộng đồng địa phương.
Sự gắn bó tích cực này tạo thành động lực để mỗi người dân và cả cộng đồng chung tay bảo tồn và xây dựng phát triển đô thị. Đô thị di sản với các thế mạnh về di sản tiêu biểu đặc sắc cũng góp phần tạo nguồn thu thực tế cho cộng đồng người dân bản địa từ khai thác dịch vụ và thương mại du lịch.
Đối với khách du lịch, đô thị di sản với hệ thống các di sản có giá trị được công nhận sẽ trở thành cơ sở để xây dựng thương hiệu đô thị, quảng bá rộng rãi trên phạm vi toàn quốc hay toàn cầu, thu hút du khách để thúc đẩy sự phát triển ngành dịch vụ du lịch.
Đối với các đô thị, có được thương hiệu đô thị di sản cũng đồng nghĩa mở ra nhiều cơ hội để bảo tồn và phát huy bản sắc đô thị, xây dựng thương hiệu đô thị, có thêm nguồn lực từ thương mại dịch vụ để nâng cấp hoàn thiện hệ thống hạ tầng tiện ích đô thị, phát triển bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân từ du lịch di sản - một ngành công nghiệp không khói, mang đến nguồn thu bền vững và luôn là động lực và thế mạnh riêng của các đô thị di sản…
Để nắm bắt và phát huy được các lợi thế này, nhiều quốc gia đã nghiên cứu ban hành từ rất sớm các khái niệm, kèm theo những quy định, tiêu chí nhận diện đô thị di sản đồng bộ và cụ thể.
Trong đó nêu rõ đô thị di sản là bộ phận cấu thành của hệ thống di sản, là tài sản quốc gia và nhân loại. Đô thị di sản góp phần thúc đẩy và nâng cao giá trị thương hiệu quốc gia, thương hiệu địa phương.
Về cơ bản bộ các tiêu chí có thể bao gồm 8 tiêu chí chính:
- Các tiêu chí về định lượng: (1) Số lượng và quy mô các di sản vật thể, di tích được bảo tồn ở tất cả các cấp; (2) Các di sản văn hóa phi vật thể; (3) Quy mô về số lượng các khu vực di sản đặc biệt là khu vực lõi đã được công nhận trong đô thị; (4) Hiệu quả đã đạt được trong công tác quy hoạch bảo tồn phát huy giá trị; (5) Tiêu chí về niên đại (từ 100 năm trở lên).
- Các tiêu chí về định tính: (6) Đô thị hoặc khu vực trong đô thị có vai trò minh chứng đặc biệt và duy nhất về văn hóa, lịch sử truyền thống và quốc gia; (7) Tính toàn vẹn của diện mạo, bố cục truyền thống và di tích văn hóa lịch sử trong đô thị; (8) Những đóng góp hiệu quả về bảo tồn đô thị với việc phát triển kinh tế - xã hội đương đại.
Ở mức cao hơn, hiện nhiều nhóm chuyên gia của UNESCO còn đề xuất để sớm ban hành khái niệm và tiêu chí về đô thị di sản bền vững. Theo đó, chú trọng hơn đến mục tiêu tạo dựng động lực của môi trường đô thị di sản tạo ra các lợi ích bền vững không chỉ ở hiện tại mà còn cho nhiều thế hệ tương lai.
Với khái niệm này, việc xác định tính bền vững của di sản trong đô thị di sản quan trọng hơn so với các loại thành phố khác. Các chỉ số áp dụng bổ sung cho đô thị di sản bền vững bao gồm: (1) Chỉ số kinh tế; (2) Chỉ số nhà ở và hạ tầng xã hội; (3) Chỉ số môi trường và di sản văn hóa được ưu tiên nhiều nhất chính đối với đánh giá giá trị đô thị di sản bền vững.
Định hướng trong công tác quản lý và bảo tồn, phát huy giá trị hệ thống đô thị di sản Việt Nam
Với hiện trạng hiện nay, từ thực tiễn trong nước, có thể thấy nhiều đô thị cổ tại Việt Nam có thể đạt được hầu hết các tiêu chí là đô thị di sản, thậm chí là đô thị di sản bền vững.
Để tránh tình trạng danh xưng đô thị di sản không chỉ là một tên gọi tự phát, tương tự như các quốc gia đi trước của khu vực và thế giới, việc sớm thiết lập bộ khái niệm và tiêu chí về đô thị di sản (về phân loại, tiêu chí đánh giá và công nhận cho từng loại, các yêu cầu đặc thù…) sẽ giúp hoàn thiện công tác quy hoạch, quản lý kiến trúc cảnh quan đô thị, bảo tồn và phát huy giá trị đạt được các hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên, bên cạnh kế thừa bộ khái niệm và tiêu chí của thế giới, cần tính đến các điều kiện và bối cảnh đặc thù riêng tại Việt Nam.
Công tác quản lý phát triển các đô thị có tiềm năng được đánh giá và trở thành đô thị di sản cần được thực hiện đồng thời dựa trên 3 nhóm nội dung công việc chính, bao gồm:
1. Đẩy mạnh công tác đánh giá phân loại đô thị đạt tiêu chí đô thị di sản hiện nay trên cơ sở sau khi hệ thống các tiêu chí đánh giá phân loại được ban hành. Đối với từng đô thị thực hiện rà soát đánh giá hệ thống các giá trị vật thể và phi vật thể của đô thị.
Trong đó, công tác đánh giá, kiểm kê, bảo tồn nguyên trạng tối đa các di tích lịch sử văn hóa ở các cấp độ khác nhau trong đô thị, hạn chế các tác động tiêu cực làm biến dạng thậm chí là mai một các giá trị văn hóa lịch sử, kiến trúc cảnh quan của khu vực di tích và từng di tích và bản sắc, lối sống, phong tục tập quán truyền thống của đô thị.
2. Đẩy mạnh công tác phát huy giá trị về di sản của đô thị tạo thương hiệu, góp phần quảng bá du lịch, làm nền tảng định hướng và phát huy các tiềm năng đô thị một cách hiệu quả và bền vững.
Điều này có thể đạt được trên cơ sở việc nghiên cứu, quy hoạch tổ chức kết nối đồng bộ hệ thống các di sản và di tích có giá trị trong đô thị thành các khu vực, tuyến không gian kết nối liên thông trong bản thân khu vực đô thị cũng như liên đô thị.
Chú trọng phát huy giá trị đô thị di sản trong một số mục tiêu chính như tạo thương hiệu, góp phần quảng bá du lịch, làm nền tảng định hướng và phát huy các tiềm năng đô thị một cách hiệu quả và bền vững.
3. Phát triển đồng bộ và bền vững đô thị trên cơ sở giải quyết tốt được sự cân bằng giữa bảo tồn và phát triển trong quản lý và phát triển đô thị. Các đô thị di sản về tổng thể vẫn là một đô thị phát triển đồng bộ có quy mô diện tích và dân số nhất định.
Nếu không giải quyết tốt sự cân bằng, quá chú trọng bảo tồn sẽ trói buộc sự phát triển của đô thị, cũng như không đảm bảo chất lượng cuộc sống của người dân. Ngược lại, nếu phát triển thiếu kiểm soát cũng sẽ khiến hệ thống các di sản văn hóa, di tích lịch sử bị ảnh hưởng.
Điều này có thể làm được trên cơ sở một quy hoạch xây dựng đô thị khoa học và đồng bộ, trong đó hoạch định rõ các hành lang bảo vệ cho các khu vực di sản, công trình di tích trong đô thị, đồng thời cũng phát triển đồng bộ hạ tầng đô thị, nâng cao tiện ích và chất lượng cuộc sống cho người dân.
Sau cùng, các chính sách phân bổ có hiệu quả nhưng hài hòa và cân bằng các lợi ích thu được từ di sản đô thị là rất quan trọng. Cần đạt được sự phân phối hài hòa nguồn lực giữa các khu vực hành chính, giữa khu vực nội đô và ngoại thành ven đô, giữa nhóm dân cư, các nhóm dân tộc trong đô thị.
Đặc biệt, các nguồn lực này phải được sử dụng tiết kiệm và hiệu quả, tập trung cho việc xây dựng nâng cấp các hệ thống hạ tầng tiện ích đô thị, gia tăng mức độ tiện nghi và thụ hưởng cuộc sống cho mọi nhóm dân cư.