
Các mô hình phát triển
Các quốc gia có hệ thống đường sắt phát triển được chia làm 3 nhóm: Nhóm 1, tự phát triển và làm chủ hoàn toàn công nghệ về đường sắt tốc độ cao (ĐSTĐC) gồm Nhật Bản, Pháp, Đức và Italia. Nhóm 2, nhận chuyển giao sau đó làm chủ công nghệ như các nước có nền công nghiệp phát triển như Trung Quốc, Hàn Quốc và Tây Ban Nha. Nhóm 3, các quốc gia nhận chuyển giao và làm chủ công nghệ vận hành, bảo trì, từng bước nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, khuyến khích phát triển công nghiệp để từng bước làm chủ công nghệ.
Nghiên cứu kinh nghiệm của nhiều quốc gia thuộc cả 3 nhóm này, nhận thấy để sẵn sàng cho việc đầu tư, phát triển ĐSTĐC, tất cả các quốc gia đều có chương trình quốc gia phát triển về nguồn nhân lực, công nghiệp đường sắt. Bên cạnh đó, một số quốc gia đã rất thành công với những sáng kiến, chính sách phát triển nhân lực cụ thể.
Trung Quốc cải tạo phát triển đường sắt bằng nhân tài
Thời gian qua, Trung Quốc đã tập trung phát nguồn nhân lực chiến lược, dài hạn, gắn liền với tiếp nhận, chuyển giao, nghiên cứu phát triển công nghệ, đặc biệt là công nghệ thi công đường sắt tốc độ cao.
Dù bắt đầu muộn hơn các nước phát triển gần 40 năm, nhưng ĐSTĐC của Trung Quốc phát triển thần tốc. Tính đến hết năm 2023, Trung Quốc đã vận hành hơn 42.000 km, chiếm hơn 70% tổng số km ĐSTĐC của thế giới. Đây là mạng lưới ĐSTĐC dài nhất thế giới, chuyên phục vụ vận chuyển hành khách với tốc độ 250 - 350 km/h.
Trung Quốc phát triển đường sắt tốc độ cao theo hai giai đoạn: Giai đoạn đầu là tiếp nhận và chuyển giao khoa học kỹ thuật, công nghệ từ các nước phát triển như Alstom, Siemens, Bombardier và Kawasaki Heavy Industries. Giai đoạn sau, Trung Quốc đạt được mức độ tự chủ một phần trong việc chế tạo thế hệ tàu tốc độ cao tiếp theo bằng cách phát triển năng lực trong nước để sản xuất các bộ phận quan trọng và cải tiến thiết kế của nước ngoài. Từ 2010, hầu như toàn bộ hạ tầng, ray đều do trong nước đảm nhận. Đến nay, ray, công trình phụ trợ, thông tin tín hiệu, phần mềm điều hành, thiết kế ga và cả đoàn tàu đều do Trung Quốc tự phát triển, chỉ còn sử dụng một số bộ phận của nước ngoài.
Bên cạnh đó, Trung Quốc đặt mục tiêu chiến lược “Cải tạo đường sắt bằng nhân tài” và xây dựng đội ngũ nhân tài đường sắt chuyên nghiệp, chất lượng cao. Để thực hiện mục tiêu này, từ năm 2017, Trung Quốc đã triển khai chương trình “Trăm triệu nhân tài”. Tới nay, chương trình đã huy động nguồn lực từ 25 trường đại học hàng đầu, 11 viện khoa học, 51 phòng thí nghiệm quốc gia, 500 công ty và 40 viện nghiên cứu chính phủ với sự tham gia của hơn 10.000 kỹ sư, nhà nghiên cứu và kỹ thuật viên.
Với chính sách nhân lực trên, Trung Quốc đã nghiên cứu, chế tạo và triển khai robot xây dựng hệ thống điện khí hóa trên cao. Năm 2018, Trung Quốc ra mắt cỗ máy tự động có khả năng đặt đường ray ĐSTĐC ở tốc độ 1,5 km/ngày. Tới năm 2021, sau khi cải thiện độ chính xác và khả năng làm việc 24/7, cỗ máy đã tăng hiệu suất lắp đặt đường ray lên 2 km/ngày. Tới nay, các kỹ sư Trung Quốc đã phát triển robot, các thiết bị tự động có khả năng thực hiện nhiều nhiệm vụ đa dạng như hàn, sơn, đào hầm, đổ bê tông, kiểm tra chất lượng, tiến tới ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), các robot mới có khả năng xây dựng đường dây điện khí hóa trên cao cho các tuyến ĐSTĐC.
Hiện nay, Công ty TNHH Tập đoàn Đường sắt Quốc gia Trung Quốc (China Railway) là doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, chịu trách nhiệm xây dựng, quản lý, vận hành và duy trì hệ thống ĐSTĐC.
Hàn Quốc với chiến lược nội địa hóa
Với chiến lược nhân lực đi từ tiếp nhận chuyển giao từ nước ngoài, đến làm chủ, tự phát triển công nghệ trong nước và vươn tới chuyển giao công nghệ ra nước ngoài.
Năm 1989, Chính phủ Hàn Quốc quyết định chủ trương xây dựng ĐSTĐC Seoul - Busan, dài 412 km để giải quyết tình trạng tắc nghẽn giao thông trên hành lang kinh tế này. Tuyến đường được khởi công năm 1992 và tháng 4/2004, Hàn Quốc chính thức đưa đoạn tuyến đầu tiên từ Seoul đến Daegu vào khai thác, trở thành quốc gia thứ 5 trên thế giới vận hành ĐSTĐC. Hàn Quốc lựa chọn đầu tư đoàn tàu đầu tiên là TGV Réseau của Alstom (Pháp), với tốc độ kỹ thuật 350 km/h và tốc độ khai thác 305 km/h. Xác định đầu tư nguồn lực chiến lược, Hàn Quốc đã nhanh chóng làm chủ công nghệ và tự phát triển được tàu tốc độ cao HSR-350x đạt tốc độ thử nghiệm 352km/h và đưa vào khai thác ngay từ tuyến ĐSTĐC thứ 2, KTX Sancheon.
Đến năm 2013, Hàn Quốc đã phát triển thành công tàu KTX thế hệ tiếp theo, HEMU-430X, đạt 421,4 km/h, đưa Hàn Quốc trở thành quốc gia thứ tư trên thế giới sau Nhật Bản, Pháp và Trung Quốc phát triển tàu tốc độ cao chạy trên đường sắt thông thường với tốc độ trên 420 km/h.
Để đạt được thành tựu như ngày hôm nay, từ tuyến đường sắt đầu tiên Seoul - Busan, Hàn Quốc đã có kế hoạch tiếp nhận chuyển giao công nghệ đi đôi với nghiên cứu, phát triển tàu cao tốc hết sức chiến lược.
Một trong những điểm nhấn, Hàn Quốc xác định thỏa thuận chuyển giao công nghệ đầu máy, toa xe và hạ tầng giữa Tập đoàn Chế tạo chính tàu TGV Pháp, GEC Alsthom (nay là Alstom) với các công ty của Hàn Quốc. Theo đó, quá trình chuyển giao công nghệ thực hiện theo 3 bước:
Bước 1, chuyển giao tài liệu kỹ thuật: Tất cả tài liệu kỹ thuật được chuyển giao cho kỹ sư Hàn Quốc nghiên cứu.
Bước 2, tổ chức, tiếp nhận đào tạo, bao gồm đào tạo tại chỗ và tại chức: Các kỹ sư sau khi nghiên cứu tài liệu được cử sang Pháp để đào tạo, bao gồm cả “đào tạo tại chỗ và tại chức” tại nơi sản xuất 2 đoàn tàu đầu tiên.
Bước 3, sản xuất, chế tạo nội địa và kiểm tra đánh giá: Các kỹ sư sau khi trở về Hàn Quốc sẽ đào tạo lại cho nhóm kỹ sư ở trong nước để bắt đầu nội địa hóa sản xuất 34 đoàn tàu tiếp theo.
Tuy nhiên, dù đã rất chủ động trong thỏa thuận chuyển giao công nghệ TGV Réseau cho tuyến Seoul - Busan, Hàn Quốc vẫn chưa kiểm soát được toàn bộ quá trình sản xuất và xây dựng, một số bộ phận vẫn phải nhập khẩu. Để tăng tỷ lệ nội địa hóa, Hàn Quốc đã triển khai dự án nội địa hóa hệ thống ĐSTĐC công nghệ Pháp với mục tiêu phát triển được hệ thống ĐSTĐC nội địa với tốc độ chạy tàu tới 350 km/h. Dự án có tổng chi phí 256,9 tỷ Won (255 triệu USD), bắt đầu năm 1996 và kết thúc năm 2007, do Bộ Xây dựng và Giao thông Hàn Quốc chủ trì. Dự án huy động sự tham gia của hàng nghìn nhà khoa học, chuyên gia, kỹ sư của 10 cơ quan nghiên cứu thuộc Chính phủ, 16 trường đại học, 35 công ty tư nhân mà nòng cốt là Viện Công nghệ công nghiệp Hàn Quốc (KITECH) và Công ty Chế tạo đầu máy toa xe Huyndai Rotem thuộc Tập đoàn Huyndai. Kết quả, Hàn Quốc đã tự phát triển được tuyến ĐSTĐC thứ hai trở đi với tỷ lệ nội địa hóa lên đến 92% và 87% giá trị gia tăng là sản phẩm của các nhà nghiên cứu và chế tạo trong nước.
Đối với nhân lực khai thác vận hành, từ đường sắt quốc gia tới đường sắt đô thị và ĐSTĐC đều do Tập đoàn Đường sắt Hàn Quốc (KORAIL) đảm nhận.
Khi triển khai tuyến ĐSTĐC đầu tiên Seoul - Busan, KORAIL đã thực hiện chương trình đào tạo nhân viên vận hành ĐSTĐC theo từng bước và tự đào tạo. Để vận hành khai thác thương mại đoạn tuyến Seoul - Deagu, KORAIL lên kế hoạch chuẩn bị 2.766 nhân lực có trình độ, qua đào tạo; trong đó, 1.457 người được huy động từ nguồn nhân lực sẵn có của KORAIL trên cơ sở tái cơ cấu, sắp xếp lại lao động của Tập đoàn.
Hàn Quốc đã xây dựng các bước đào tạo nhân lực vận hành ĐSTĐC gồm:
Bước 1, đào tạo ở nước ngoài: Bắt đầu bằng đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ hướng dẫn (37 người vào năm 1996 và 22 người vào năm 1997) và tổng số học viên lên tới 450 người; trong đó, có 50 người cho khóa học quản lý, 73 người cho khóa học hướng dẫn và 300 nhân viên theo từng vị trí việc làm.
Bước 2, đào tạo trong nước: Sau khi trở về Hàn Quốc, cán bộ, chuyên gia đã được đào tạo ở nước ngoài tổ chức đào tạo 4.000 nhân viên địa phương và đồng thời thực hiện đào tạo tại chỗ trên các đoạn đường thử nghiệm.
Với phương châm “Đường sắt Hàn Quốc, tốt nhất thế giới”, Tập đoàn KORAIL đã tổ chức xây dựng và đào tạo nhân viên theo hệ thống phát triển nguồn nhân lực của Tập đoàn. Chương trình đào tạo nhân sự của KORAIL có thời gian 6 tháng, chia ba giai đoạn:
Giai đoạn đào tạo cơ bản: Đào tạo cơ bản trong 2 tuần để nhân sự tuyển dụng mới tìm hiểu về hoạt động tổng thể của hệ thống, đề xuất các ý tưởng sáng tạo khi đến các địa điểm làm việc chính, đồng thời tiếp thu các kiến thức cơ bản để đảm bảo có thể làm việc ngay khi được giao nhiệm vụ.
Giai đoạn đào tạo tại chỗ: Sau khi hoàn thành khóa đào tạo cơ bản, nhân sự sẽ được phân công đến các bộ phận để đào tạo tại chỗ. Quá trình đào tạo tại chỗ diễn ra từ 1 tới 3 tháng.
Giai đoạn đào tạo tại hiện trường làm việc: Kết thúc đợt đào tạo, các nhân sự sẽ được phân tới vị trí làm việc thực tế.
Thành công với chiến lược làm chủ công nghệ và khai thác an toàn, vận hành hiệu quả ĐSTĐC Hàn Quốc, năm 2008, KORAIL thành lập Trung tâm Đào tạo Đường sắt Quốc tế cho Hiệp hội Đường sắt Quốc tế (UIC) châu Á nhằm chuyển giao công nghệ và bí quyết quản lý đường sắt Hàn Quốc cho cộng đồng quốc tế. Trung tâm đào tạo cung cấp bốn chương trình đào tạo chính: Chương trình đường sắt tiên tiến, chương trình đầu máy toa xe, chương trình hậu cần quốc tế và chương trình quản lý đường sắt. Trung tâm đã được công nhận là một trong những trung tâm xuất sắc nhất trong mạng lưới các trung tâm đào tạo đường sắt châu Á.
Hoa Kỳ chuẩn bị nguồn nhân lực một cách bài bản
Khi bắt tay vào đầu tư ĐSTĐC, Hoa Kỳ đã xây dựng kế hoạch và tổ chức triển khai tuyển dụng, đào tạo nhân lực xây dựng và vận hành ĐSTĐC bài bản, chi tiết.
Chính quyền tiểu bang California hiện đang triển khai đầu tư công, xây dựng tuyến ĐSTĐC kết nối San Francisco với Los Angeles, kéo dài đến Sacramento và San Diego, với tổng chiều dài 1.287 km, qua 24 nhà ga, tốc độ tàu tối đa đạt 322 km/h, khổ đường 1.435 mm, công nghệ Shinkansen, dự kiến hoàn thành năm 2033.
Cơ quan ĐSTĐC California (CHSRA) chịu trách nhiệm lập kế hoạch, thiết kế, xây dựng và vận hành hệ thống ĐSTĐC đầu tiên của Hoa Kỳ. CHSRA được giao sở hữu hệ thống, có trách nhiệm đảm bảo các tiêu chuẩn, quy chuẩn an toàn; quản lý, giám sát hợp đồng; giải phóng mặt bằng và đảm bảo tuân thủ các yêu cầu bảo vệ môi trường, xã hội.
Xác định đây là dự án quy mô, sử dụng nhân lực lớn, tạo cơ hội việc làm cho nhân lực địa phương, CHSRA đã xây dựng kế hoạch nhân lực chi tiết, bao gồm dự báo nhu cầu nhân lực theo chuyên môn, trình độ cho từng năm trong suốt hai giai đoạn xây dựng 2009 - 2033 và giai đoạn vận hành khai thác từ năm 2025 đoạn San Francisco - Los Angeles và 2033 đoạn San Francisco - Los Angeles - Sacramento -San Diego. Theo đó, giai đoạn 1 của dự án, từ 2009 đến 2025, tổng nhân lực phục vụ xây dựng ĐSTĐC California khoảng 256.000 người. Trong đó, nhân lực xây dựng chiếm 79,2%, nhân lực vận hành và bảo trì chiếm 12,5% và nhân lực thiết kế và chuẩn bị xây dựng chiếm 8,4%.
Để triển khai, CHSRA thành lập Trung tâm Đào tạo Central Valley nhằm cung cấp các lớp học trước khi học nghề và đào tạo kỹ thuật thực hành cho người dân California trong quá trình ứng tuyển việc làm tại dự án này.
CHSRA cũng tổ chức truyền thông rộng rãi về kế hoạch tuyển dụng nhân lực cho dự án và các khóa đào tạo nghề, đào tạo kỹ thuật thực hành tại Trung tâm Đào tạo Central Valley.