1. Đặt vấn đề
Nhà ở truyền thống dân tộc Mường là di sản văn hóa, là trí tuệ và công sức lao động của nhiều thế hệ đã gìn giữ … Ngôi nhà không chỉ là nơi sinh hoạt, trú ngụ mà còn mang các giá trị tinh thần, tạo dựng bản sắc dân tộc, biểu hiện một quá khứ sống động của người Mường đối với cách ứng xử với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
Thực trạng cho thấy, số lượng nhà sàn ở tỉnh Hòa Bình giảm đi rất nhiều, tại huyện Kim Bôi, huyện Lương Sơn, tỷ lệ nhà sàn truyền thống, nhà sàn xây chỉ còn dưới 10%.
Từ hiện trạng trên cho thấy, số lượng nhà sàn truyền thống tại các huyện giáp ranh TP Hà Nội còn lại rất ít, tỷ lệ nhà sàn xây dựng bê tông cốt thép không nhiều, dẫn đến việc bảo tồn và phát huy kiến trúc nhà truyền thống trở thành một trong những thách thức lớn, trở thành cấp thiết trong thời kỳ phát triển CNH, HĐH.
Giai đoạn từ năm 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 theo Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 17/11/2022, của Trung ương là giai đoạn tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH, điều chỉnh bổ sung tiêu chí phù hợp với thực tế, không chỉ xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất, các thiết chế cứng mà chú trọng nhiều đến phát triển kinh tế, giữ gìn bản sắc nông thôn, phát huy văn hóa truyền thống, nâng cao năng lực cộng đồng cư dân trong xã hội nông thôn.
Quyết định số 208/QĐ-UBND ngày 13/2/2023 của UBND tỉnh Hòa Bình về việc phê duyệt chương trình phát triển đô thị tỉnh Hòa Bình đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 về việc thúc đẩy quá trình đô thị hóa nhanh, hiệu quả, có chất lượng cao và bền vững hơn, có nền kiến trúc đô thị tiên tiến giàu bản sắc, xây dựng các đô thị phải gắn với phát triển nông thôn, nâng cao chất lượng, diện mạo kiến trúc cảnh quan đô thị theo hướng hiện đại, văn minh, phù hợp với bản sắc văn hóa của mỗi đô thị.
Nếu không có định hướng cụ thể, giải pháp quản lý thì nhà ở truyền thống dân tộc Mường sẽ biến mất. Từ đó, sẽ làm mai một nền văn hóa truyền thống hàng ngàn năm của cha ông để lại. Việc nhận diện giá trị kiến trúc nhà ở truyền thống dân tộc Mường nhằm bảo tồn phát huy giá trị kiến trúc và xây dựng phát triển hiện đại hóa nông thôn, đảm bảo giữ gìn bản sắc dân tộc là điều cần thiết.
Bài báo đã sử dụng các phương pháp: phương pháp sưu tầm, tổng hợp tài liệu bằng cách thu thập hình ảnh, bài viết, nghiên cứu, sách, luận án liên quan đến kiến trúc, văn hóa dân tộc Mường để bài báo có cái nhìn tổng quan phục vụ nghiên cứu; Phương pháp khảo sát thực địa giúp tác giả hiểu được thực trạng xóm làng Mường trong khu vực nghiên cứu; Phương pháp phân tích, đánh giá: trên cơ sở nguồn tư liệu cơ bản có được từ các phương pháp trên, việc nghiên cứu sẽ tiến hành phân tích, chọn lọc và đánh giá; Phương pháp đối chiếu, so sánh: trên cơ sở nguồn tư liệu cơ bản có được từ các phương pháp trên, tiến hành đối chiếu, so sánh các văn bản có độ tin cậy, áp dụng tham khảo cho đề xuất, giải pháp.
Hiện nay, trong nước có nhiều tác giả đã nghiên cứu về nhà ở dân tộc Mường, các bài nghiên cứu như tác giả Nguyễn Văn Huyên đã bảo vệ thành công luận án tiến sỹ với đề tài “Introduction a L’etude de L’ Habitation sur pilotis dans l’asie du est” - Nhập môn nghiên cứu nhà sàn Đông Nam Á.
Trong luận án có thể thấy sự bao phủ của nhà sàn trong khu vực Đông Nam Á lúc bấy giờ và giới thiệu về nhà ở dân tộc Mường[16]. Tác giả, Jeaner Cuisinier cho ra mắt công trình nghiên cứu đồ sộ về người Mường có tên “Les Mường”.
Trong đó có nói đến hình thái kiến trúc nhà cửa, bản làng người Mường tại nhiều khu vực địa lý khác nhau [2]. Tác giả Nguyễn Khắc Tụng miêu tả nhà ở người Mường, đề cập đến sự biến đổi nhà ở trong gian đoạn này trong cuốn sách “Nhà cửa các dân tộc ở trung du Bắc Bộ Việt Nam” [12], hay trong nghiên cứu “Một vài đặc điểm và quá trình phát triển của ngôi nhà sàn Mường cổ truyền” tại kỷ yếu hội thảo Văn hóa dân tộc Mường [13].
Tác giả Chu Quang Trứ với nghiên cứu “Kiến trúc dân gian truyền thống”, phân tích đặc điểm kiến trúc nhà ở truyền thống của các dân tộc thiểu số trong đó có dân tộc Mường [1]. Tác giả Nguyễn Đình Thi giới thiệu về nhà ở dân tộc Mường trong cuốn sách “Kiến trúc nhà ở nông thôn” [3].
Luận án tiến sỹ của Phan Đăng Sơn với tựa đề “Tổ chức môi trường ở của các dân tộc miền núi phía Bắc theo hướng sinh thái và giữ gìn bản sắc” Tác giả đã nghiên cứu về môi trường ở truyền thống từ đó đưa ra nguyên tắc và giải pháp cho nhiều dân tộc khác nhau ở miền núi phía Bắc theo hướng sinh thái và giữ gìn bản sắc [8].
Nhóm nghiên cứu, Phạm Đức Dương và cộng sự đã công bố đề tài NCKH cấp tỉnh Hòa Bình về “Nghiên cứu bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa nhà sàn của người Mường Hòa Bình dưới tác động của đô thị hóa”; Đề tài đã nhận diện các văn hóa về xây dựng nhà ở, các báo cáo thống kê số lượng, kiểm đếm về loại hình nhà ở dân tộc Mường tại Hòa Bình thời điểm 2012 [4].
Tác giả Bùi Huy Vọng với cuốn sách “Làng Mường ở Hòa Bình”, Tác giả đã giới thiệu về lược sử, đặc điểm làng Mường, văn hóa, miêu tả được nhà sàn và cấu trúc của ngôi nhà sàn. Nhận định nhà sàn bước đầu có những cuộc chuyển biến từ cột gỗ sang cột bê tông từ những năm 2005 trở lại đây [15].
Nhóm tác giả Nguyễn Đình Thi và Trần Quốc Bảo với nghiên cứu “Phát triển bền vững kiến trúc nhà ở truyền thống các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc” tập trung nghiên cứu về nhà ở, hiện trạng, nhận diện giá trị, phân loại nhà ở các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc.
Bên cạnh các tác giả trong nước còn có các tác giả nước ngoài như Elham Hosseinim và cộng sự đã trình bày rõ nhận diện và kế thừa giá trị kiến trúc truyền thống của người Malay [18].
Basak Ipekoglu đã công bố nghiên cứu “Phương pháp đánh giá kiến trúc nhằm bảo tồn nhà truyền thống” nhằm xếp hạng nhà ở truyền thống thành nhiều nhóm từ A-D, giúp bảo tồn nhà ở truyền thống tại Thổ Nhĩ Kỳ [17].
Các nghiên cứu trên thường dừng ở mức miêu tả, liệt kê về nhà ở dân tộc Mường, tuy nhiên chưa nhận diện về giá trị nhà ở dân tộc Mường tỉnh Hòa Bình.
Mục tiêu của bài báo nghiên cứu nhằm phát huy giá trị kiến trúc nhà ở dân tộc Mường, giữ gìn bản sắc dân tộc trong thời kỳ phát triển CNH, HĐH nông thôn.
2. Nhận diện giá trị kiến trúc nhà ở truyền thống
Trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội ngôi nhà truyền thống của người Mường đang có những biến đổi rõ rệt, điều này mang tính quy luật vận động phù hợp với cuộc sống mới, hiện đại hơn, văn minh hơn.
Ngoài những sự biến đổi mang tính tích cực, đã có sự kế thừa và phát huy giá trị kiến trúc truyền thống, còn có những biến đổi, cải tạo mang tính tiêu cực. Vì vậy việc nhận diện giá trị kiến trúc nhà ở truyền thống dân tộc Mường rất quan trọng nhằm bảo tồn, và phát huy các giá trị nhà ở truyền thống dân tộc Mường.
Theo PGS.TS Nguyễn Đình Thi kiến trúc nhà ở dân tộc thiểu số vùng miền núi phía Bắc có giá trị trên nhiều bình diện, trong đó có giá trị vật thể và phi vật thể [6]. Phương pháp nhận diện giá trị kiến trúc nhà ở truyền thống các dân tộc là phương pháp mang tính tích hợp, bao hàm được toàn thể giá trị vật thể và phi vật thể của không gian bản làng và ngôi nhà.
Bên cạnh đó, bản sắc của mỗi dân tộc lại khác nhau với lối sống, văn hóa khác nhau do khu vực địa lý và đặc điểm môi trường tự nhiên có sự khác biệt.
Nhóm giá trị vật thể bao gồm giá trị về tính nguyên bản, giá trị về thẩm mỹ, giá trị về kỹ thuật vật liệu xây dựng, giá trị về cảnh quan, giá trị về tạo lập môi trường sinh thái, giá trị về đáp ứng cuộc sống hiện đại; Nhóm giá trị phi vật thể có giá trị về niên đại lịch sử, giá trị về văn hóa xã hội.
- Nhóm giá trị vật thể
+ Giá trị về tính nguyên bản

Giá trị về tính nguyên bản thể hiện qua việc giữ gìn hình dáng kiến trúc nhà sàn và các chi tiết kiến trúc được lưu giữ tại các tài liệu trước đây. Nhà ở truyền thống người Mường có hình dáng chữ nhật, mái cong mai rùa, bốn mái, dựng trên quy cách truyền thống như kích thước xây dựng được dựa trên kích thước của mỗi gia chủ.
Bộ khung nhà bằng gỗ, các chi tiết khớp nối ngoàm vào nhau không sử dụng đinh vít, kết cấu được dựa trên cơ sở dạng trung gian giữa vì cột và vì kèo; đây là kiểu vì đang trong quá trình chuyển từ vì cột sang vì kèo. Kiểu vì có bốn cột, hai cột cái, đầu cột đấu vào quá giang và đội đòn tay cái, hai cột con ở bên ngoài hai cột cái, không có xà ngang liên kết cột cái; bộ kèo có hình chữ a, hai chân doãng, chỏm kèo có thanh thang gọi là quyết đồ, giằng lấy hai kèo; dưới bụng kèo nơi giáp đòn tay cái có cái ngạnh (pà wắc, kể ca, cu) gác trên đòn tay cái để không bị tụt; khu vực mái đầu hồi còn có Pắp cal, léo hè là hai bộ phận làm giá đỡ khung mái[11]. Từ kết cấu đơn giản để phát triển ra cấu trúc mặt bằng, cấu tạo bộ khung nhà, vách, tường…
Việc bố trí công năng trên mặt bằng sinh hoạt mang tính đặc trưng. Mặt bằng sinh hoạt của người Mường được phân chia theo chiều đứng và chiều ngang nhà. Cấu trúc ngôi nhà chia làm 3 không gian sử dụng ở các cốt cao độ khác nhau từ trên xuống với các chức năng khác nhau từ trên xuống bao gồm: gác lửng để đồ đạc, thóc gạo; sàn sinh hoạt cho người Mường; nền đất dưới sàn để chăn nuôi gia súc.

Nhà ở có từ một đến bốn gian, hai chái. Các gian lớn dạng mở, không phân chia thành các phòng khép kín riêng biệt. Trong mặt bằng có những quy tắc phân định không gian cụ thể cho từng khu vực, từ quy tắc này có thể thấy rõ nhà sàn chính là môi trường đầu tiên mang đậm nét văn hóa, tôn ti trật tự tạo nên bản sắc xã hội của người Mường.

Không gian mặt bằng được quy ước phân chia thành các không gian như không gian thờ cúng, không gian sinh hoạt chung, không gian ở. Nhà thường có hai thang ở hai đầu nhà. Thang chính dẫn tới không gian chính (khả banh) bao gồm không gian thờ cúng, không gian tiếp khách, không gian cho nam giới. Thang phụ được dẫn tới Không gian riêng tư của người phụ nữ (khả buồng) và bếp. Chính giữa ngôi nhà là không gian sinh hoạt chung gia đình (khưa nhà) và bếp.
Không gian trong nhà còn được phân chia thành các không gian ước lượng: i) không gian trong- ngoài (Zặng Clong - Zặng tha) phân chia nhà thành hai phần bao gồm không gian ngoài dành cho sinh hoạt nam giới, tiếp khách, thờ cúng; không gian trong dành cho bếp và sinh hoạt phụ nữ; ii) không gian trên- dưới (Fảil Clênh- Fảil Chờ) được chia theo chiều ngang nhà, được tính từ thẳng đòn nóc ra vách trước nhà với quy ước gian trên dành cho thờ cúng, người cao tuổi; bên dưới là dành cho vị thế ngược lại, là nơi để các dụng cụ lao động.
Giá trị nguyên bản còn được thể hiện của hình ảnh bếp lửa trong nhà ở truyền thống dân tộc Mường, được ví như là linh hồn của nhà. Bếp dùng để đun nấu thức ăn, là nơi giữ lửa, cung cấp ánh sáng trong sinh hoạt ban đêm. Bếp gắn liền với đời sống sinh hoạt, được người Mường linh thiêng hóa, tôn thờ trong đời sống tín ngưỡng, tâm linh [9].
+ Giá trị về thẩm mỹ
Giá trị thẩm mỹ của ngôi nhà được thể hiện qua tỷ lệ giữa bộ phận chính của ngôi nhà bao gồm mái, thân nhà, hàng cột, được tạo ra từ kích thước, tầm vóc con người. Bộ khung nhà hình thành trên cơ sở liên kết các vì kèo bằng mộng.
Các cửa sổ mở rộng sát sàn, thông thoáng. Cột nhà và xà nhà được lựa chọn loại gỗ tốt, khẩu độ dài, với độ bền hàng trăm năm. Chiếc cột được dựng lên đầu tiên được gọi là cột thiêng và ngay sau cây cột là bàn thờ tổ tiên.
Cầu thang gỗ hình chữ nhật thường là những thân cây tròn được khoét thành bậc là số lẻ may mắn 5,7,9... Mái nhà truyền thống có hình thức khum như mai rùa. Mái có 04 mặt dốc xuống, hình thang điểm cuối của mái che qua nửa cửa sổ nhà.
Mái được lợp bằng lá gianh, lá gồi, cỏ voi, màu sắc nâu xám. Nhà ở thường đơn giản, không họa tiết trang trí cầu kỳ, rất ít nhà có trang trí thêm các hình vẽ hoa văn tại vì kèo, cửa sổ,..
Cửa sổ và cửa đi được trang trí bằng hệ thống thanh tre đứng. Các diện tường được trang trí bằng liếp tre đan họa tiết hoa văn đơn giản…
Giá trị thẩm mỹ của ngôi nhà người Mường còn được thể hiện qua cách trang trí ở bên ngoài và bên trong ngôi nhà. Không gian trang trọng nhất của ngôi nhà là ban thờ, dạng bàn đặt hoặc treo.
Xà nhà thường trang trí các vật dụng như cồng chiêng, cung nỏ, trống, mũi tên, các chiến lợi phẩm như sừng trâu, sừng bò hay sừng tê giác. Đây là những vật dụng có ý nghĩa đến đời sống văn hóa của người Mường. Một số ít ngôi nhà có họa tiết hoa văn trang trí trên cửa sổ, cửa sổ, gầm xà, gầm vì kèo.
Giá trị thẩm mỹ còn được thể hiện bởi hình ảnh không gian bếp lửa, khu vực bếp hình chữ nhật đặt trực tiếp trên mặt sàn, phía trên bếp là những tầng chạn bằng khung tre. Những vật dụng như rổ tre, bát tre, mâm tre, đũa, và lương thực như bắp ngô, sắn được xếp đều đặn, khéo léo. Hình ảnh giản dị nhưng mang đậm tính thẩm mỹ cho ngôi nhà.
+ Giá trị về kỹ thuật và vật liệu xây dựng
Giá trị về kỹ thuật dựng nhà thể hiện qua việc lắp dựng nhà sàn bằng phương pháp thủ công, với những phương tiện thô sơ, đòi hỏi nhiều công đoạn, nhiều sức lực, nên phát huy được tinh thần đoàn kết, tương trợ, cố kết cộng đồng làng xóm.
Người giúp tìm gỗ, lạt; người giúp công sức như xẻ gỗ, pha tre, đan gianh cọ, lợp mái. Khi chọn cây gỗ để làm nhà, người Mường rất cẩn trọng chọn lựa nguyên vật liệu, không sử dụng các cây gỗ như cây bị sét đánh, cây chết đứng, cây kê gốc, cây bắc cầu, cây liền rồng.
Quy trình dựng nhà phải tiến hành nhiều công việc và trải qua nhiều công đoạn, vì vậy để tích trữ đủ lượng gỗ và dựng một ngôi nhà sàn rất lâu có thể kéo dài đến vài năm.
+ Giá trị về cảnh quan
Xóm làng Mường thường nằm trên các sườn dốc thoải, dưới chân đồi, núi thoải bao quanh các thung lũng màu mỡ, gần sông, suối, xung quanh là những dãy núi đá vôi, rừng cây rậm rạp.
Đường vào xóm thường quanh co, chạy theo địa thế đồi núi. Xóm Mường nhỏ, mật độ xây dựng thưa, xung quanh thường có nhiều cây cối. Giá trị cảnh quan của xóm Mường khi mọi ngôi nhà đều hướng ra cánh đồng lúa bát ngát, sau lưng là các đồi núi thấp.
Các ngôi nhà thường có cao độ không đều, nhấp nhô, phụ thuộc vào địa thế đất, và được che khuất lấp ló sau những tán cây rừng. Một số ngôi nhà được dựng gần con suối nhỏ, ngồi trong nhà có thể nghe thấy tiếng suối chảy, cảnh quan tự nhiên.
Xa xa xóm làng là những con sông, con suối lớn, mờ mờ ảo ảo trong làn sương, hơi ẩm của núi rừng, tạo ra vẻ đẹp đặc trưng của xóm Mường.
+ Giá trị về tạo lập môi trường sinh thái
Giá trị về tạo lập môi trường sinh thái của ngôi nhà sàn truyền thống dân tộc Mường được thể hiện trong việc cân bằng sinh thái và đa dạng sinh học. Nhà ở phù hợp với điều kiện tự nhiên như địa thế đất không bằng phẳng với cao độ không đồng đều; phù hợp với khí hậu ẩm ướt, nhiều sương mù, lạnh giá...
Với tầng sinh hoạt cao, không khí lạnh, sương ẩm không tác động trực tiếp vào không gian sinh hoạt và tránh được nguồn nước mưa lũ từ đầu nguồn chảy xuống. Mái lá che phủ rộng và nhiều cửa sổ tạo sự lưu thông gió, vi khí hậu mát mẻ.
Khuôn viên nhà ở thường rộng rãi, trồng cây ăn quả, cây lấy gỗ, trầu cau, rau xanh. Một số khuôn viên còn có ao cá nhỏ được nuôi bởi suối nguồn do người Mường dẫn về. Tỷ lệ giữa nhà ở và khuôn viên đất trồng trọt thấp, tạo được cân bằng sinh thái giữa con người và thiên nhiên.

+ Giá trị về đáp ứng cuộc sống hiện tại
Trong những năm gần đây, kinh tế xã hội khu vực miền núi tỉnh Hòa Bình phát triển, đời sống người dân ngày càng tốt hơn. Nhiều hộ gia đình đã xóa đói, giảm nghèo, nhà cửa khang trang hơn, hiện đại, tiện nghi hơn, đáp ứng nhu cầu tiện nghi ở của người Mường.
Các thiết bị hiện đại như ti vi, điều hòa, tủ lạnh, máy giặt, bàn ghế, giường tủ,.. được người Mường khéo léo tích hợp vào trong ngôi nhà, phù hợp với không gian nội thất bên trong nhà sàn.
- Nhóm giá trị phi vật thể
+ Giá trị về niên đại và lịch sử
Người Mường và người Kinh có chung tổ tiên là người Lạc Việt (Việt Cổ, hay còn gọi là người Tiền Việt - Mường [5] cùng chung hệ ngôn ngữ Mon-Khmer, thuộc ngữ hệ Nam Á. Vào thời tiền Đông Sơn, người Thái cổ đã di cư tới nước ta và hòa nhập với người bản địa Tiền Việt Mường để tạo thành người Mường cổ và Việt cổ [7].
Vì vậy nhà ở truyền thống nguyên bản của người Mường có giá trị lịch sử cao. Nhà ở truyền thống người Mường thường được làm bằng các vật liệu tự nhiên, khai thác từ rừng địa phương, nằm trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt nên nhà ở thường không bền, dễ bị hư hỏng.
Do vậy những ngôi nhà được xây dựng ngày nay, có thời gian xây dựng càng lâu càng có giá trị vì sự quý hiếm, mang tỷ lệ nguyên gốc cao.

+ Giá trị về văn hóa - xã hội
Theo truyền thuyết dân gian, người Mường coi trọng và tôn thờ rùa, bởi đây là linh vật thiêng, biểu tượng sự trường cửu, lâu đời. Trong áng mo nổi tiếng Te tấc te đất của người Mường, rùa thiêng đã dạy người dân làm nhà vì vậy với hình ảnh ngôi nhà được so sánh hóa với hình ảnh Rùa thiêng.
Bên cạnh đó, với quan niệm vũ trụ quan được chia thành ba tầng bốn thế giới, bao gồm: Tầng trên cùng là Mường Trời - Mường Klơi là nơi trú ngụ của Vua trời tương ứng cho phần mái ngôi nhà, Mường Pưa là tầng sinh hoạt của gia đình là thế giới người sống, tầng cuối cùng là gầm sàn tương ứng với Mường Pưa Tịn ở dưới mặt đất và Mường Vua Khú ở đáy nước [10].
Sự kết nối của ba tầng này là những cái cột trong ngôi nhà [4]. Quan niệm này được áp dụng với ban thờ thổ địa ở khuôn viên nhà. Cách phân chia công năng trong sàn sinh hoạt cũng nói lên được tôn ty trật tự, trên dưới trong cách ứng xử gia đình người Mường.
Ngôi nhà truyền thống của người Mường là một thế giới thu nhỏ, không chỉ là nơi ở sinh hoạt của gia đình mà còn thể hiện được mối quan hệ giữa con người với con người, con người với xã hội, con người với thiên nhiên, con người với tôn giáo tín ngưỡng. Điều này tạo nên sự hài hòa của thế giới quan, là bản sắc riêng của dân tộc Mường.
Quy mô về độ lớn, sự chắc chắn của ngôi nhà tương ứng với sự giàu có và vị trí vai trò của chủ nhà trong xã hội. Nhà truyền thống được phân thành nhà lang, và nhà cho tầng lớp thấp hơn.
Trên cơ sở phân tích trên, các giá trị được tổng hợp tại bảng 1 dưới đây:
Bảng 1. Các giá trị kiến trúc nhà ở truyền thống dân tộc Mường tỉnh Hòa Bình
Như vậy giá trị kiến trúc nhà ở truyền thống được nhận diện bởi 02 nhóm: giá trị vật thể và phi vật thể. Trong đó giá trị vật thể có 06 nhóm giá trị và 19 giá trị thành phần; nhóm giá trị phi vật thể có 02 nhóm giá trị và 06 giá trị thành phần.
3. Định hướng kế thừa và phát huy kiến trúc nhà ở truyền thống dân tộc mường tỉnh Hòa Bình
Trên cơ sở về nhận diện giá trị kiến trúc và tình hình thực trạng nhà ở dân tộc Mường tỉnh Hòa Bình hiện nay, nghiên cứu đề xuất các định hướng nhằm kế thừa nhà ở truyền thống dân tộc Mường nhằm đáp ứng hiện đại hóa nông thôn, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc như sau:
Thứ nhất về cấu trúc không gian xóm làng: khoanh vùng, giữ gìn các không gian xóm làng, nơi vẫn còn giữ được nhiều ngôi nhà sàn truyền thống.
Các khu vực không gian được phép phát triển, phải kế thừa kiến trúc truyền thống. Các khu vực xây dựng mới, điểm dân cư nông thôn mới, thửa đất xây dựng phải phù hợp với việc xây dựng nhà sàn, yêu cầu theo các mẫu nhà hoặc bản vẽ nhà sàn theo quy định. Quy hoạch xây dựng theo địa hình tự nhiên, hạn chế san nền, áp dụng cấu trúc giao thông nguyên bản.
Các không gian sinh kế như đồng lúa, rừng, đồi, cảnh quan cần được bảo tồn và giữ gìn. Chỉnh trang các không gian bản làng, có thể cứng hóa giao thông bằng nhiều vật liệu thân thiện hơn như đá, gạch xếp, sỏi.
Thứ hai về cấu trúc khuôn viên: Khuôn viên sân vườn cần quy hoạch gọn gàng, phù hợp vệ sinh môi trường. Chuồng trại dựng xa nhà. Khối nhà phụ xây thêm cần hài hòa về hình thức kiến trúc với nhà sàn.
Thứ ba về tổ chức mặt bằng: Tổ chức không gian mặt bằng cần linh hoạt. Không gian dưới gầm sàn không đóng kín xây tường, không gian cần mở, đa chức năng. Bổ sung các công năng đáp ứng sinh hoạt, tiện nghi ở hiện đại. Gìn giữ không gian bếp truyền thống tại khuôn viên sân vườn.
Thứ tư về hình thức kiến trúc: Nhà ở truyền thống xuống cấp cần được cải tạo, sửa sang các bộ phận theo nguyên bản. Cải tạo chỉnh trang nhà ở, nâng cấp tiện nghi sinh hoạt, không làm thay đổi hình thái, vật liệu của nhà sàn.
Thứ năm về công nghệ xây dựng và vật liệu: Áp dụng công nghệ xây dựng hiện đại để rút ngắn thời gian dựng nhà và sức người. Áp dụng vật liệu mới, hiện đại nhưng hình thức và màu sắc cần được sơn, vẽ theo màu vật liệu truyền thống, phù hợp cảnh quan xung quanh.
4. Kết luận
Nhà sàn truyền thống dân tộc Mường đã trải qua hàng nghìn năm phát triển, tồn tại, thích ứng với điều kiện tự nhiên, hài hòa với môi trường thiên nhiên sinh thái, phù hợp phong tục tập quán, tín ngưỡng. Giá trị của nhà sàn truyền thống cần được nhận diện để làm cơ sở phát huy, kế thừa, giữ gìn bản sắc dân tộc cho các thế hệ tiếp sau.
Bài báo đã nhận diện được 02 nhóm giá trị của nhà sàn dân tộc Mường, bao gồm nhóm giá trị vật thể giá trị về tính nguyên bản, giá trị về thẩm mỹ, giá trị về kỹ thuật vật liệu xây dựng, giá trị về cảnh quan, giá trị về tạo lập môi trường sinh thái, giá trị về đáp ứng cuộc sống hiện đại; Nhóm giá trị phi vật thể có giá trị về niên đại lịch sử, giá trị về văn hóa xã hội; và 25 giá trị thành phần; đã đưa ra được 05 định hướng kế thừa và phát triển kiến trúc nhà ở truyền thống đáp ứng hiện đại hóa nông thôn.
Việc nhận diện giá trị về nhà ở truyền thống dân tộc Mường giúp cho các nhà quản lý, nhà quy hoạch, kiến trúc sư đưa ra các giải pháp quản lý, mẫu nhà ở phù hợp, định hướng cho người dân nhằm xây dựng, cải tại chỉnh trang nhà ở, không gian xóm làng, đáp ứng nhu cầu tiện nghi sinh hoạt mà vẫn giữ gìn bản sắc dân tộc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trứ Chu Quang (2003), Kiến trúc dân gian truyền thống, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
2. Jeanne Cuisinier (1948), Địa lý nhân văn và xã hội học người Mường, NXB Lao động.
3. Nguyễn Đình Thi (2011), Kiến trúc nhà ở nông thôn, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
4. Viện nghiên cứu văn hóa phương Đông và Phạm Đức Dương (2013), Nghiên cứu bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa nhà sàn của người Mường Hòa Bình dưới tác động đô thị hóa Hòa Bình.
5. Bùi Văn Kín, Mai Văn Trí và Nguyễn Phụng (1972), Góp phần tìm hiểu tỉnh Hòa Bình, Ty Văn hóa thông tin tỉnh Hòa Bình.
6. Nguyễn Đình Thi và Trần Quốc Bảo (2024), Phát triển kiến trúc nhà ở truyền thống các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc, NXB Xây dựng, Hà Nội.
7. Trịnh Sinh (2015), "Người Thái và văn hóa Đông Sơn", Cộng đồng Thái-Kadai Việt Nam: Những vấn đề phát triển bền vững, NXB Thế giới, Hà Nội.
8. Phan Đăng Sơn (2011), Tổ chức môi trường ở của các dân tộc miền núi phía Bắc theo hướng sinh thái, phát triển bền vững và giữ gìn bản sắc dân tộc, Trường Đại học Xây dựng.
9. Vương Xuân Tình Các dân tộc ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
10. Trần Từ (1996), Người Mường ở Hòa Bình, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Hà Nội.
11. Nguyễn Khắc Tụng Nhà ở cổ truyền các dân tộc Việt Nam, Hà Nội.
12. Nguyễn Khắc Tụng (1978), Nhà cửa các dân tộc ở trung du Bắc Bộ Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
13. Nguyễn Khắc Tụng (1993), "Một vài đặc điểm và quá trình phát triển của ngôi nhà sàn Mường cổ truyền", Kỷ yếu hội thảo Văn hóa dân tộc Mường, Hà Nội.
14. Vietnamplus (2021), Khám phá vẻ đẹp của bản dân tộc Mường Giang Mỗ ở Hòa Bình, truy cập ngày, tại trang web https://www.vietnamplus.vn/kham-pha-ve-dep-cua-ban-dan-toc-muong-giang-mo-o-hoa-binh-post766072.vnp#google_vignette
15. Bùi Huy Vọng (2014), Làng Mường ở Hòa Bình, NXB Văn hóa thông tin, Hòa Bình.
16. Nguyễn Văn Huyên (1934), introduction a L'étude de L'Habitation sur pilotis dans l'asie du sud-est, Librairie orientaliste paul geuthner, Paris.
17. Ipekoglu Basak (2006), "An architectural evaluation method for conservation of traditional dwellings", Building and Environment.
18. Hosseinim Elham, Mursib Gurupiah, Nafida Raja và Shamninan Raja (2016), "Implementation of Traditional Malay Design Values", International Journal of Built Envỉonment and Sustainability.
19. Trinh Sinh (2023), Living traditions of the Muong people, truy cập ngày, tại trang web https://heritagevietnamairlines.com/en/living-traditions-of-the-muong-people/.
20. Trọng văn (2021), Bật mí bí quyết dựng nhà đặc biệt của người Mường ở Hòa Bình, truy cập ngày, tại trang web https://laodong.vn/photo/bat-mi-bi-quyet-dung-nha-dac-biet-cua-nguoi-muong-o-hoa-binh-952639.ldo.