Khu di tích Đền Hùng thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, TP Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, cách trung tâm TP Việt Trì 7km về phía Bắc, cách thủ đô Hà Nội khoảng 90km.
Đền Hùng là di tích lịch sử văn hoá đặc biệt quan trọng của quốc gia. Từ chân núi, du khách sẽ được chiêm ngưỡng lần lượt các di tích kiến trúc đặc biệt.
Bức tranh gốm
Sau khi qua cổng trung tâm lễ hội, du khách bước vào con đường rộng lớn dẫn tới cổng chính của đền.
Hai bên lối vào được trang trí rất hoành tráng, nổi bật là bức tranh màu được ghép từ 1.400 bức tranh gốm Bát Tràng, có chiều dài 72 mét, chiều cao 9,9 mét, với chủ đề “Ngày hội non sông trên đất Tổ”.

Trung tâm bức tranh là hình tượng vầng nhật nguyệt là trời, hai bên nằm trong vòng bán nguyệt tượng trưng là đất, một bên là rồng và một bên là phượng. Phía dưới hình tượng mặt trời là sáu cô gái xếp hình đôi dâng lễ vật bánh chưng, bánh giầy (lễ vật đặc trưng trong ngày giỗ Tổ).
Xuyên suốt chiều dài bức tranh là hình tượng truyền thuyết bọc trăm trứng, bố cục trong quả trứng là các lễ hội truyền thống như rước kiệu, rước lúa thần, rước chúa gái, hội phết.
Đây cũng là khu vực diễn ra các lễ hội hằng năm.
Cổng đền

Được xây dựng vào năm Khải Định thứ 2 (1917), với kiến trúc mái vòm cuốn cao 8,5m, hai tầng 8 mái. Tầng dưới có một cửa vòm cuốn lớn, đầu cột trụ cổng tầng trên có cửa vòm nhỏ hơn, 4 góc tầng mái trang trí rồng, đắp nổi hai con nghê.
Giữa cột trụ và cổng đắp nổi phù điêu hai võ sỹ, một người cầm giáo, một người cầm rìu chiến, mặc áo giáp, ngực trang trí hổ phù.
Giữa tầng một có đề bức đại tự: “Cao sơn cảnh hành” (Lên núi cao nhìn xa rộng); có người dịch là “Cao sơn cảnh hạnh” (Đức lớn như núi cao).
Mặt sau cổng đắp hai con hổ là hiện thân vật canh giữ thần.
Đền Hạ
Từ chân núi đi lên, qua cổng đền, điểm dừng chân của du khách là đền Hạ. Tương truyền nơi đây, Mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, sau nở thành 100 người con, nguồn gốc “đồng bào” (cùng bọc) được bắt nguồn từ đây.
Đền Hạ được xây dựng lại trên nền đất cũ vào thế kỷ XVII - XVIII. Kiến trúc kiểu chữ “nhị” gồm hai toà tiền bái và hậu cung, mỗi toà ba gian, cách nhau 1,5m. Kiến trúc đơn sơ kèo cầu suốt, bẩy gối vào đầu kèo làm cho mái sau dài hơn mái trước.
Đốc xây liền tường với đốc Hậu cung, hai bên đắp phù điêu, một bên voi, một bên ngựa. Bờ nóc phẳng, không trang trí mỹ thuật. Mái lợp ngói mũi, địa phương gọi là ngói mũi lợn.

Nằm bên phải đền Hạ là Sơn cảnh thừa long tự, sau đổi là Thiên quang thiền tự.
Chùa được xây dựng vào giữa thế kỷ XV theo kiểu nội công ngoại quốc. Các toà được làm theo kiểu cột trụ, quá giang gối đầu vào cột xây, kèo suốt.
Mái chùa được lợp ngói mũi, đầu đao cong. Bờ nóc tiền đường đắp lưỡng long chầu nguyệt. Chùa thờ Phật theo phái Đại thừa.

Trước cửa chùa có cây thiên tuế là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn Quân tiên phong trước khi về tiếp quản thủ đô Hà Nội.
Trước sân chùa có 2 tháp sư hình trụ 4 tầng. Trên nóc đắp hình hoa sen. Lòng tháp xây rỗng, cửa vòm nhỏ. Trong tháp có bát nhang và tấm bia đá khắc tên các vị hoà thượng đã tu hành và viên tịch tại chùa.
Đền Trung (Hùng Vương Tổ miếu)
Tương truyền là nơi các vua Hùng cùng các Lạc hầu, Lạc tướng du ngoạn ngắm cảnh thiên nhiên và họp bàn việc nước. Đây cũng là nơi vua Hùng thứ 6 nhường ngôi cho Lang Liêu - người con hiếu thảo vì đã có công làm ra bánh chưng, bánh giầy.

Đền được xây theo kiểu hình chữ nhất, có 3 gian quay về hướng nam, dài 7,2m, rộng 3,7m. Mái hiên cao 1,8m, không có cột kèo, cầu quá giang gối vào tường, bít đốc tường hậu, phía trước mở 3 cửa.
Đền Thượng và lăng Hùng Vương
Đền Thượng được đặt trên đỉnh núi Hùng. Tương truyền rằng thời Hùng Vương, vua Hùng thường lên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh để tiến hành nghi lễ tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp thờ trời đất, thờ thần lúa, cầu mong mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, nhân khang vật thịnh.
Tục truyền đây còn là nơi vua Hùng thứ 6 lập đàn cầu trời ban cho người tài ra giúp nước đánh giặc Ân. Sau khi Thánh Gióng đánh tan giặc và bay về trời, vua Hùng cho lập đền thờ vọng trên đỉnh núi, về sau, nhân dân đặt thêm bài vị vua Hùng vào thờ cúng.

Đền Thượng có tên chữ là “Kính thiên lĩnh điện” (Điện cầu trời), còn có tên là “Cửu trùng tiên điện” (Điện giữa chín tầng mây). Trong đền Thượng có bức đại tự đề “Nam Việt triệu tổ” (Tổ khai sáng nước Việt Nam).
Đền được làm kiểu chữ Vương, kiến trúc đơn giản, kèo cầu, không có chạm trổ, được xây dựng qua bốn cấp khác nhau gồm: nhà chuông trống (cấp I), đại bái (cấp II), tiền tế (cấp III) và hậu cung (cấp IV).
Bên phía tay trái đền có một cột đá thề, tương truyền do Thục Phán dựng lên khi được vua Hùng thứ 18 truyền ngôi để thề nguyện bảo vệ non sông đất nước. Cột đá cao 1,3m, rộng 0,3m, hình vuông. Đến năm 1968, Ty Văn hoá Vĩnh Phú tôn tạo lên bệ như hiện nay.
Lăng Hùng Vương tương truyền là mộ của vua Hùng thứ 6, nằm ở phía đông đền Thượng, có vị trí đầu đội sơn, chân đạp thủy, mặt quay theo hướng Đông Nam. Xưa là mộ đất, thời Tự Đức năm thứ 27 (1870) cho xây mộ dựng lăng. Thời Khải Định tháng 7 (1922) trùng tu lại.

Lăng hình vuông, cột liền tường, có đao cong 8 góc, tạo thành 2 tầng mái. Ba mặt Tây, Đông, Nam đều có cửa vòm, 2 bên cửa đều đắp kỳ lân, xung quanh có tường bao quanh, trang trí hoa, chất liệu bằng đá.
Đền Giếng (tên chữ là Ngọc Tỉnh)
Tương truyền là nơi hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa (con gái của vua Hùng thứ 18) thường soi gương, vấn tóc khi theo cha đi kinh lý qua vùng này. Hai bà có công dạy dân trồng lúa nước và trị thuỷ nên được nhân dân lập đền thờ phụng muôn đời.
Đền được xây dựng vào thế kỷ XVIII, theo hướng Đông Nam, kiến trúc kiểu chữ công, gồm nhà tiền bái (3 gian), hậu cung (3 gian), 1 chuôi vồ và 2 nhà oản (4 gian), có phương đình nối tiền bái với hậu cung.

Cổng Đền Giếng được xây vào thế kỷ XVIII, kiểu dáng gần giống cổng chính nhưng nhỏ và thấp hơn.
Cổng xây theo kiểu kiến trúc 2 tầng 8 mái. Tầng dưới, giữa có một cửa xây kiểu vòm, hai bên có hai cột trụ trên lắp nghê chầu. Tầng trên giữa cổng có bức đại tự đề: “Trung sơn tiểu thất” (Ngôi miếu nhỏ trong núi). Hai bên có đề câu đối và tượng hai võ sỹ. Mặt sau cổng đắp hình hổ.
Bảo tàng Hùng Vương
Bảo tàng Hùng Vương được khởi công xây dựng vào năm 1996 và được khánh thành đúng ngày khai hội đền Hùng năm Quý Mùi (2003).
Với gần 700 hiện vật gốc trên tổng số hơn 4.000 hiện vật có trong Bảo tàng, 162 bức ảnh, 4 bức tranh gốm, 5 bức tranh sơn mài, 9 bức gò đồng, 5 hộp hình, một nhóm tượng lớn và nhiều hiện vật khác được trưng bày đã khắc hoạ chủ đề tổng quát: “Các vua Hùng dựng nước Văn Lang trên mảnh đất Phong Châu lịch sử”.

Phần trưng bày của Bảo tàng Hùng Vương giới thiệu giai đoạn văn hoá Hùng Vương bằng các hiện vật liên quan đến thời đại Hùng Vương tìm được trên đất Phú Thọ và Vĩnh Phúc.
Ngoài các di tích trên, du khách còn có thể tham quan Đền thờ Tổ Mẫu Âu Cơ và Đền thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân nằm cách khu vực trung tâm Di tích khoảng 1km.
Về với Đền Hùng là về với cội nguồn dân tộc, để tự hào về dòng giống tiên rồng đang chảy trong huyết mạch của mỗi người dân Việt Nam.
Khu Di tích lịch sử Đền Hùng được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa Quốc gia đặc biệt, là nơi thờ tự các vua Hùng đã có công dựng nước - Tổ tiên của dân tộc Việt Nam.
Năm 2012, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Tháng 10/2020, Khu Di tích lịch sử Đền Hùng đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Khu du lịch Quốc gia.