Phân định rõ trách nhiệm quản lý tài nguyên nước giữa các bộ, ngành

16:15 25/05/2023
Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) cần phân định rõ trách nhiệm quản lý tài nguyên nước với quản lý công trình khai thác, sử dụng nước của các bộ, ngành, bổ sung cơ chế phối hợp giữa Bộ TN&MT với các bộ, ngành liên quan.

Thiếu khung pháp lý cho an ninh nguồn nước

Chiều 25/5, Quốc hội họp phiên toàn thể tại Hội trường nghe Tờ trình, Báo cáo thẩm tra về dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), thảo luận về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự án Luật Hợp tác xã (sửa đổi).

Bộ trưởng Bộ TN&MT Đặng Quốc Khánh trình bày Tờ trình về dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), qua hơn 10 năm thực hiện, Luật Tài nguyên nước năm 2012 đã góp phần tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức, hành động của toàn xã hội về bảo vệ, khai thác sử dụng tài nguyên nước; tài nguyên nước được quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững hơn, mang lại nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.

Bộ trưởng Bộ TN&MT Đặng Quốc Khánh trình bày Tờ trình về dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi).

Tuy nhiên, một số quy định của Luật Tài nguyên nước năm 2012 còn giao thoa, chồng chéo với các luật khác dẫn đến khó thực hiện hoặc lãng phí nguồn lực; Thiếu khung pháp lý cho an ninh nguồn nước, đặc biệt là vấn đề bảo đảm an ninh nước cho sinh hoạt; thiếu quy định cụ thể liên quan đến điều hòa, phân bổ nguồn nước, giám sát chặt chẽ các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước.

Bên cạnh đó, việc thi hành pháp luật về tài nguyên nước ở một số nơi chưa nghiêm; phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm chưa được thực hiện tốt; các cơ chế tài chính, chế tài, công cụ kiểm soát, giám sát chưa hiệu quả; các cơ chế hợp tác, giải quyết các vấn đề nước xuyên biên giới chưa đồng bộ.

Theo Bộ trưởng Đặng Quốc Khánh, Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) được xây dựng nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất, bảo đảm minh bạch để có khả năng khai thác tối đa nguồn lực tài nguyên, phân bổ hợp lý và sử dụng có hiệu quả; bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia; chú trọng phòng ngừa, kiểm soát và phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt và ô nhiễm; phân định rõ trách nhiệm quản lý nguồn nước và trách nhiệm quản lý công trình khai thác nước cả trung ương và địa phương khắc phục các chồng chéo, xung đột pháp luật.

Dự án Luật cũng hướng tới quản lý tài nguyên nước trên nền tảng công nghệ số, thống nhất về cơ sở dữ liệu, xây dựng bộ công cụ hỗ trợ ra quyết định theo thời gian thực, giảm thiểu nhân lực quản lý, vận hành, chi phí đầu tư của nhà nước; giảm điều kiện kinh doanh cho tổ chức, cá nhân.

Về phạm vi điều chỉnh, về cơ bản được giữ nguyên như Luật Tài nguyên nước năm 2012. Về đối tượng áp dụng, Luật này áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên nước.

Cần thể hiện rõ các nguyên tắc quản lý

Trình bày Báo cáo thẩm tra dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy cho biết, Ủy ban KHCN&MT tán thành với sự cần thiết ban hành Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). Về cơ bản, dự thảo Luật đã thể chế hóa quan điểm, định hướng đổi mới của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực này.

Chủ nhiệm UBKHCN&MT Lê Quang Huy trình bày Báo cáo thẩm tra.

Hồ sơ dự án Luật được chuẩn bị công phu, lấy ý kiến rộng rãi của các đối tượng chịu tác động, các cơ quan quản lý có liên quan; tham khảo pháp luật và kinh nghiệm quốc tế trong quản lý tài nguyên nước; tiếp thu nghiêm túc nhiều ý kiến thẩm tra, góp ý; đáp ứng các yêu cầu theo quy định, các quy định trong dự thảo Luật cơ bản đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất với hệ thống pháp luật và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và bảo đảm tính khả thi.

Về tên gọi và phạm vi điều chỉnh của Luật, có ý kiến đề nghị đổi tên thành “Luật Quản lý nguồn nước”, “Luật Quản lý và sử dụng tài nguyên nước” cho phù hợp với mục tiêu quản lý về nước, quy định của các luật về khai thác, sử dụng nước hiện hành và các quan điểm nêu trong Tờ trình của Chính phủ.

Các đại biểu tại Hội trường.

Ủy ban KHCN&MT đề nghị nội dung dự thảo Luật thể hiện rõ hơn các nguyên tắc quản lý cho từng hoạt động cụ thể, từ quản lý tài nguyên, quản lý hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước, hoạt động bảo vệ tài nguyên nước, hoạt động hạn chế tác hại do nước gây ra... và tối ưu hóa trong khai thác, sử dụng nước. 

Làm rõ cơ chế, điều kiện sử dụng ngân sách nhà nước để các tổ chức, cá nhân thực hiện dự án điều tra cơ bản tài nguyên nước, cập nhật thông tin, kết quả điều tra vào hệ thống thông tin tài nguyên nước; trách nhiệm của các bộ, ngành liên quan trong cập nhật, chia sẻ thông tin về điều tra cơ bản tài nguyên nước…

Phân định rõ trách nhiệm quản lý tài nguyên nước với quản lý công trình khai thác, sử dụng nước của các bộ, ngành; bổ sung quy định về cơ chế phối hợp giữa Bộ TN&MT với các bộ khác có liên quan.

Bình luận