Quy hoạch hệ thống đô thị thúc đẩy đô thị hóa nông thôn
Sáng 31/7, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chủ trì cuộc họp với các Bộ, ngành, chuyên gia, nhà khoa học rà soát dự thảo Quy hoạch hệ thống đô thị và nông thôn thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Quy hoạch hệ thống đô thị và nông thôn được xác định là quy hoạch ngành quốc gia, cụ thể hóa Quy hoạch tổng thể quốc gia theo ngành, lĩnh vực quản lý phát triển hệ thống đô thị, nông thôn. Đây cũng là lần đầu tiên Quy hoạch hệ thống đô thị và nông thôn được xây dựng theo Luật Quy hoạch.
Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Tường Văn cho biết, quan điểm cốt lõi của Quy hoạch là phát triển đô thị trở thành động lực, giữ vai trò nòng cốt trong phát triển kinh tế. Nông thôn là nền tảng để phát triển bền vững đô thị.
Cùng với đó, không gian đô thị, nông thôn được quy hoạch gắn với không gian, phân vùng phát triển kinh tế, xã hội quốc gia; có trọng tâm, trọng điểm, gắn kết hiệu quả với hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là các công trình trọng điểm quốc gia.
Theo đó, hệ thống đô thị được định hướng phát triển theo chuỗi, dài và chùm đô thị; tập trung tại một số địa bàn có điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, nguồn nhân lực chất lượng cao và các tiềm năng, lợi thế khác để hình thành vùng động lực, hành lang kinh tế, cực tăng trưởng, tạo hiệu ứng lan toả đến các đô thị vừa và nhỏ, đô thị miền núi và hải đảo, thúc đẩy đô thị hóa nông thôn.
Đồng thời phát triển đô thị vừa và nhỏ trong mối quan hệ chặt chẽ, chia sẻ chức năng với các đô thị lớn, giảm dần khoảng cách phát triển giữa các đô thị; chú trọng các đô thị nhỏ, vùng ven đô để hỗ trợ nông thôn thông qua các mối liên kết đô thị, nông thôn.
Ngoài ra, theo Thứ trưởng Nguyễn Tường Văn, Quy hoạch cũng định hướng xây dựng nông thôn toàn diện, bền vững, hiện đại, văn minh, gắn với phát triển đô thị, đô thị hóa; có cơ sở hạ tầng, dịch vụ xã hội đồng bộ và tiệm cận với khu vực đô thị; giữ gìn và phát huy đặc trưng, bản sắc từng vùng miền.
Trong đó, khu dân cư nông thôn là hạt nhân quan trọng của khu vực nông thôn, được quy hoạch gắn với bảo vệ tài nguyên tự nhiên, văn hóa truyền thống; phù hợp với các vùng sinh thái nông nghiệp; đảm bảo an ninh, quốc phòng của đất nước.
Làm rõ hơn các cơ sở chính trị, pháp lý, khoa học
Đóng góp cho dự thảo Quy hoạch, Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Đỗ Thành Trung nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xác định mục tiêu, chiến lược phát triển để làm căn cứ xây dựng hệ thống quy hoạch đô thị, nông thôn có sức sống, thống nhất, đồng bộ, không xung đột với các quy hoạch khác.
Trong khi đó, Thứ trưởng Bộ VHTT&DL Hoàng Đạo Cương cho rằng, Quy hoạch hệ thống đô thị và nông thôn phải tạo thành chuỗi các đô thị, vùng nông thôn có đặc trưng riêng, phù hợp với lịch sử, địa hình, điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội… nhằm tạo tiền đề phát triển mới cho từng vùng, miền...
Kết luận cuộc họp, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà nhấn mạnh, xây dựng Quy hoạch hệ thống đô thị và nông thôn thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 là nhiệm vụ mới, lần đầu tiên được triển khai.
Phó Thủ tướng đề nghị Bộ Xây dựng làm rõ hơn các cơ sở chính trị, pháp lý, khoa học và mối quan hệ của Quy hoạch này với các quy hoạch chuyên ngành, quy hoạch quốc gia, quy hoạch tỉnh.
Đồng thời rà soát, đánh giá tác động của phương pháp lập Quy hoạch đối với các quy hoạch liên quan đã được phê duyệt; công tác quản lý, sử dụng các sản phẩm của Quy hoạch (quy hoạch chung, quy hoạch phân khu và quy hoạch chi tiết).
Ngoài ra, Quy hoạch cũng cần xác định rõ vai trò, vị trí, phạm vi của khu vực nông thôn đối với quá trình đô thị hoá.
Phó Thủ tướng giao Bộ Xây dựng tiếp thu tối đa các ý kiến đóng góp, khẩn trương hoàn thiện Quy hoạch, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê quyệt.
Mục tiêu tổng quát của Quy hoạch hệ thống đô thị và nông thôn thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 là: Đến năm 2030, tỷ lệ đô thị hóa cả nước đạt trên 50%; Số lượng đô thị toàn quốc khoảng 1.000 - 1.200 đô thị; Kinh tế khu vực đô thị đóng góp vào GDP cả nước khoảng 85%.
Tầm nhìn đến năm 2050, hệ thống đô thị liên kết thành mạng lưới đồng bộ, thống nhất, cân đối giữa các vùng, miền, có khả năng chống chịu, thích ứng hiệu quả với BĐKH, nước biển dâng, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, bảo vệ môi trường; có hình thái kiến trúc tiêu biểu, giàu bản sắc, xanh, hiện đại, thông minh.