Ngày 23/8, Hội đồng thẩm định liên ngành đã tổ chức Hội nghị thẩm định đồ án Quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế (KKT) cửa khẩu Mộc Bài, tỉnh Tây Ninh đến năm 2045.
Bà Trần Thu Hằng - Vụ trưởng Vụ Quy hoạch - Kiến trúc (Bộ Xây dựng) chủ trì Hội nghị. Dự Hội nghị có ông Nguyễn Thanh Ngọc - Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh; cùng đại diện các Bộ, ngành, hiệp hội là thành viên Hội đồng thẩm định.
Xây dựng mô hình khu kinh tế tổng hợp đa ngành, đa lĩnh vực
Theo dự thảo quy hoạch, phạm vi, ranh giới lập Quy hoạch chung xây dựng KKT cửa khẩu Mộc Bài bao gồm toàn bộ địa giới hành chính thị trấn Bến Cầu, các xã Long Thuận, Tiên Thuận, Lợi Thuận, An Thạnh thuộc huyện Bến Cầu và xã Phước Chỉ, Phước Bình thuộc thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh; tổng diện tích khoảng 21.284 ha.
Giai đoạn lập quy hoạch ngắn hạn đến năm 2030, dài hạn đến năm 2045.
Theo đồ án quy hoạch, KKT cửa khẩu Mộc Bài có tính chất là khu kinh tế tổng hợp đa ngành, đa lĩnh vực với các chức năng công nghiệp - đô thị - thương mại - dịch vụ - du lịch và nông - lâm nghiệp, gắn với các hoạt động đối ngoại của quốc gia, giao lưu kinh tế, văn hóa và quan hệ chính trị, ngoại giao giữa Việt Nam, Campuchia và khu vực ASEAN.
Đồng thời là đầu mối giao thương quốc tế quan trọng giữa Việt Nam và Campuchia; là trung tâm công nghiệp - đô thị - thương mại dịch vụ và logistics của vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, trong đó tính chất công nghiệp - đô thị, cảng trung chuyển container quốc tế và dịch vụ logistics giữ vai trò quan trọng, kết hợp với phát triển du lịch và các ngành kinh tế khác.
Đây cũng là khu vực có vị trí quan trọng về quốc phòng - an ninh, gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố quốc phòng - an ninh.
Dự báo quy quy mô dân số, lao động: Đến năm 2030, quy mô dân số khoảng 105.000 - 155.000 người; dân số quy đổi khoảng 20.000 người.
Đến năm 2045, quy mô dân số khoảng 310.000 người; dân số quy đổi khoảng 50.000 người.
Nhu cầu sử dụng đất xây dựng đô thị, các khu vực chức năng: Đến năm 2030, đất xây dựng đô thị, khu chức năng, khu công nghiệp khoảng 6.500 - 7.500 ha (đất dân dụng khoảng 2.000 - 2.500 ha); đất nông nghiệp và đất khác khoảng 13.784 ha, chiếm 65% diện tích đất của khu kinh tế.
Đến năm 2045, đất xây dựng đô thị, khu chức năng, khu công nghiệp khoảng 10.500 - 12.500 ha (đất dân dụng khoảng 3.500 - 4.000 ha); đất nông nghiệp và đất khác khoảng 8.784 ha, chiếm 40% diện tích khu kinh tế.
Các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật áp dụng theo các tiêu chí tương đương với tiêu chuẩn của đô thị loại II (đến năm 2045) và phù hợp với các tiêu chuẩn, quy chuẩn hiện hành, có xét đến yếu tố đặc thù của KKT cửa khẩu Mộc Bài.
Chương trình, dự án ưu tiên đầu tư: Giai đoạn 2023 - 2030, phát triển hệ thống hạ tầng khung, giao thông trọng điểm, mở rộng không gian đô thị, tạo quỹ đất thu hút đầu tư dự án chiến lược phát triển KKT cửa khẩu Mộc Bài; hoàn thiện chương trình phát triển hạ tầng thương mại biên giới Việt Nam; phát triển các dự án trọng điểm; các dự án hạ tầng liên kết KKT với các khu vực lân cận, các khu đô thị, khu công nghiệp, trung tâm logistics, hạ tầng kỹ thuật đầu mối.
Giai đoạn 2031 - 2045, tiếp tục hoàn thiện đồng bộ toàn KKT.
Làm rõ hơn quan điểm, tiềm năng, động lực phát triển KKT cửa khẩu Mộc Bài
Cho ý kiến về đồ án quy hoạch, ông Vũ Anh Tú - Phó Vụ trưởng Vụ Quy hoạch - Kiến trúc, đại diện Thường trực Hội đồng thẩm định nhấn mạnh, cơ quan lập quy hoạch cần bổ sung, làm rõ căn cứ cần thiết phải lập quy hoạch mới, lược bớt các căn cứ không phù hợp, xác định rõ căn cứ và tính pháp lý của bản đồ nền hiện trạng.
Đồng thời cần xác định rõ phạm vi, quy mô mở rộng quy hoạch; rà soát thêm hiện trạng, đặc biệt là về hạ tầng kỹ thuật; làm rõ hơn quan điểm, tiềm năng, động lực phát triển, từ đó lựa chọn các chỉ tiêu phát triển phù hợp; làm rõ cơ sở dự báo tăng trưởng dân số; đưa ra nguyên tác quản lý các khu vực đặc thù của KKT.
Bên cạnh đó, luận cứ rõ hơn cơ sở hình thành các khu chức năng quy mô lớn; rà soát làm rõ mạng lưới hạ tầng kỹ thuật khung; làm rõ thêm nguyên tắc xác định các chương trình, dự án ưu tiên đầu tư, rà soát các nguồn vốn, đảm bảo quy định của pháp luật…
Các thành viên Hội đồng thẩm định cũng đóng góp một số ý kiến để hoàn thiện đồ án quy hoạch, như rà soát lại các căn cứ pháp lý liên quan đến ranh giới khu vực biên giới, có thêm điều khoản chuyển tiếp đối với các nội dung đã thực hiện của quy hoạch trước đây; không nên phát triển công nghiệp ra đến bờ sông để tránh tác động xấu môi trường, xác định rõ hơn mục tiêu phát triển công nghiệp phục vụ địa bàn nào, mặt hàng nào, tính toán phương án thoát nước phù hợp…
Phát biểu làm rõ hơn một số nội dung của đồ án, ông Nguyễn Thanh Ngọc - Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh nhấn mạnh cam kết sẽ chỉ đạo cơ quan lập quy hoạch rà soát, đánh giá lại hiện trạng, cập nhật thêm các căn cứ pháp lý mới, số liệu mới, có định hướng rõ hơn về phát triển hạ tầng giao thông, cũng như hạ tầng cấp nước, điện mặt trời KCN, phát triển điện rác; phát triển đô thị xanh, công nghiệp sạch, ứng dụng công nghệ cao, chế biến tinh.
Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh cũng cho biết sẽ là làm rõ hơn mô hình đô thị cửa khẩu gắn với khu công nghiệp, đẩy mạnh phát triển nhà ở công nhân, nhà ở xã hội; nghiên cứu đề xuất một số cơ chế vượt trội, gắn với vùng Đông Nam Bộ...
Kế thúc Hội nghị thẩm định, bà Trần Thu Hằng - Vụ trưởng Vụ Quy hoạch - Kiến trúc, nhấn mạnh yêu cầu tiếp tục rà soát, bổ sung các căn cứ pháp lý liên quan; quy mô ranh giới bám sát các văn bản còn hiệu lực về việc thành lập KKT; đồng thời đánh giá rõ hơn điều kiện tự nhiên, tiềm năng, hạn chế cho phát triển; lựa chọn các chỉ tiêu phát triển phù hợp.
Ngoài ra, cơ quan lập quy hoạch cần làm rõ hơn cấu trúc không gian phát triển, đặc biệt mối quan hệ giữa các đô thị và mối quan hệ với cấu trúc, chức năng của khu vực phát triển công nghiệp, các khu vực làng xóm, dân cư nông thôn; làm rõ các chỉ tiêu hiện trạng, yêu cầu đặc thù về sử dụng đất.
Cùng với đó, cần làm rõ hơn yêu cầu kết nối các tuyến giao thông, hạ tầng cấp nước, năng lượng; vấn đề đảm bảo an ninh, quốc phòng.
Cuối cùng, các thành viên Hội đồng thẩm định bỏ phiếu thống nhất thông qua đồ án quy hoạch, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt với điều kiện có chỉnh sửa, bổ sung theo các ý kiến góp ý tại Hội nghị.