Quy hoạch tổng thể quốc gia: Phải chỉ ra tiềm năng khác biệt để phát huy tối đa các nguồn lực

06:55 21/09/2022
Tại Hội nghị thẩm định Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030 tầm nhìn đến năm 2050, do Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì, ngày 14/9, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị đã đóng góp ý kiến nhằm làm rõ một số nội dung quan trọng.

Thống nhất các nội dung lớn của Quy hoạch

Tại Hội nghị, các thành viên Hội đồng đã thẩm định đánh giá, nhiệm vụ Quy hoạch tổng thể quốc gia được thực hiện một cách công phu, nghiêm túc, bài bản, cầu thị, huy động được sự tham gia đông đảo, hiệu quả của các bộ, ngành, địa phương, các chuyên gia, nhà khoa học, các tổ chức quốc tế.

Quá trình triển khai lập Quy hoạch tổng thể quốc gia đã tuân thủ đầy đủ quy trình lập quy hoạch theo quy định của Luật Quy hoạch. Nội dung Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã bám sát quy định của Luật Quy hoạch, Nghị định số 37/2019/NĐ-CP ngày 07/5/2019 của Chính phủ và phù hợp với Nhiệm vụ lập quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Chính phủ phê duyệt tại Nghị quyết số 143/NQ-CP ngày 04/10/2020.

Các thành viên nhất trí với quan điểm, tư tưởng chủ yếu của Quy hoạch tổng thể quốc gia là phát triển có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào yếu tố hiệu quả trong giai đoạn đến năm 2030, sau đó dần phát triển hài hòa, bền vững, cân đối giữa các vùng miền, địa phương đến năm 2050. 

Về cơ bản, các ý kiến của các thành viên, ủy viên Hội động thẩm định đã nhất trí với những nội dung quan trọng của Báo cáo Quy hoạch như đánh giá tổng quát về kết quả đạt được và hạn chế, yếu kém giai đoạn vừa qua, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm; các quan điểm, mục tiêu phát triển, các nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm trong thời kỳ quy hoạch; các định hướng lớn về bố trí không gian phát triển các ngành, lĩnh vực quan trọng; các vùng động lực, các hành lang kinh tế.

Quan điểm trong quy hoạch tổng thể quốc gia bao gồm: Phát triển quốc gia như một thể thống nhất, không bị chia cắt, không bị ràng buộc bởi địa giới hành chính nhằm nâng cao hiệu quả cạnh tranh toàn cầu của quốc gia, các nguồn lực đất nước được huy động và sử dụng một cách hiệu quả nhất vì lợi ích quốc gia. Phát huy tốt nhất các lợi thế so sánh, đặc thù của mỗi vùng, địa phương, hình thành một số vùng động lực, các hành lang kinh tế, các cực tăng trưởng, thúc đẩy kinh tế cả nước phát triển nhanh, hiệu quả (phát triển có trọng tâm, trọng điểm).

Phát triển theo hướng bền vững, hướng tới phát triển cân bằng, hài hòa giữa các vùng. Bảo đảm sử dụng đất, tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả; bảo vệ môi trường; bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hóa, đa dạng sinh học; phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu. Tổ chức không gian phát triển quốc gia gắn hình thành hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, đáp ứng các yêu cầu phát triển dài hạn. Tổ chức không gian phát triển gắn với hình thành hệ thống đô thị quốc gia có năng lực cạnh tranh cao, phân bố hợp lý trên địa bàn cả nước và trên các vùng; tăng cường liên kết đô thị và nông thôn, xây dựng nông thôn mới theo hướng văn minh, hiện đại, sinh thái. Tổ chức không gian phát triển quốc gia dựa trên sự gắn kết khu vực nội địa với không gian biển, tham gia các hành lang kinh tế quan trọng trong khu vực, phát triển kinh tế - xã hội các dải biên giới gắn với bảo vệ chủ quyền và bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Mục tiêu tổng quát là kiến tạo một mô hình phân bổ không gian phát triển quốc gia hiệu quả, bền vững, hình thành được các vùng kinh tế động lực, các trung tâm kinh tế, đô thị chiến lược, mạng lưới kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, kết nối giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn, tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế cao, thúc đẩy thực hiện mục tiêu đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2050 trở thành nước phát triển, thu nhập cao, xã hội hài hoà, môi trường có chất lượng tốt, trong lành và an toàn.

Sau khi lắng nghe ý kiến của các bộ ngành, địa phương và các chuyên gia, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh, công tác quy hoạch có ý nghĩa rất quan trọng với sự phát triển. Với tư duy đổi mới, tầm nhìn chiến lược, Quy hoạch phải chỉ ra được tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh, từ đó có giải pháp phù hợp để phát huy tối đa các nguồn lực.

Về xác định không gian phát triển theo vùng lãnh thổ, Thủ tướng cho rằng, đây là nhiệm vụ đã được nghiên cứu, triển khai từ lâu, việc xây dựng Quy hoạch cần có kế thừa, ổn định, đổi mới và phát triển về nội dung này.

Thủ tướng gợi ý quy hoạch cần xác định các ngành mũi nhọn sát tình hình thực tiễn, điều kiện và hoàn cảnh đất nước, gồm nông nghiệp; các ngành công nghiệp nền tảng như công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp vật liệu, công nghiệp năng lượng tái tạo, năng lượng sạch; các ngành dịch vụ như logistics, dịch vụ tiêu dùng, ngân hàng, tài chính, thương mại điện tử, công nghiệp văn hóa…

Việc xây dựng Quy hoạch cần quán triệt và cụ thể hóa phát triển nhanh nhưng bền vững, phát triển hài hòa kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường, đặt văn hóa ngang tầm kinh tế, chính trị, xã hội, xác định văn hóa lịch sử truyền thống là một nguồn lực, "văn hóa còn thì dân tộc còn"; không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội và môi trường để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần.

Thủ tướng cũng đặt vấn đề mở rộng không gian phát triển gồm không gian ngầm, không gian biển và bầu trời; phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế số, kinh tế ban đêm; phát triển không gian văn hóa gắn với du lịch.

Thủ tướng lưu ý nhiệm vụ chuyển đổi cơ cấu kinh tế; xác định thứ tự ưu tiên để bố trí, ưu tiên nguồn lực phù hợp; bảo đảm môi trường sinh thái, xử lý các vấn đề môi trường; vấn đề di dân để quy hoạch không gian gắn với phát triển dân số hài hòa, hợp lý.

Về cách thức huy động nguồn lực để thực hiện quy hoạch (gồm nhân lực, vật lực, tài lực; trong đó có nguồn lực nhà nước, nguồn lực từ người dân và doanh nghiệp, nguồn lực bên ngoài), Thủ tướng chỉ rõ, yếu tố con người là quyết định, đặc biệt là đội ngũ cán bộ và người đứng đầu. 

Lưu ý thêm việc đánh giá tác động của việc thực hiện quy hoạch, Thủ tướng yêu cầu các cơ quan nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến tại hội nghị, tiếp tục hoàn thiện các hồ sơ, văn bản liên quan, triển khai các thủ tục theo quy định để xin ý kiến Bộ Chính trị, trình Chính phủ trước khi trình Quốc hội thông qua.

Đảm bảo tính thống nhất của các hợp phần trong quy hoạch tổng thể quốc gia

Tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị đã có ý kiến về Hợp phần thực trạng và phương hướng phát triển hệ thống đô thị và nông thôn; Hợp phần thực trạng và phương hướng thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản làm vật liệu xây dựng.

Bộ trưởng Nguyễn Thanh Nghị phát biểu đóng góp ý kiến tại Hội nghị.

Đối với nội dung Hợp phần thực trạng và phương hướng phát triển hệ thống đô thị và nông thôn, theo Bộ trưởng Nguyễn Thanh Nghị, cần đánh giá kỹ, rõ hơn về vai trò, đóng góp của mạng lưới đô thị, nông thôn; Đánh giá về chất lượng đô thị, đô thị hóa, tác động của việc mở rộng, phát triển đô thị.

Theo đó, cần đánh giá làm rõ vai trò của hệ thống, mạng lưới đô thị, nông thôn đối với việc tổ chức không gian kinh tế - xã hội; phát triển không gian biển; phân vùng và liên kết vùng trong định hướng không gian tổng thể quốc gia hiện nay.

Đặc biệt, cần làm rõ vai trò của các đô thị cấp quốc gia đối với các vùng kinh tế - xã hội, vùng kinh tế trọng điểm, vùng động lực và bổ sung; Làm rõ những vấn đề, yêu cầu đối với công tác quản lý, phát triển hệ thống đô thị, nông thôn trong thời kỳ mới như đô thị thông minh, đô thị xanh, đô thị phát triển bền vững...

Bổ sung nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế trong phát triển đô thị, nông thôn, đặc biệt là các chỉ tiêu về phát triển vùng đô thị lớn.

Về phương hướng phát triển hệ thống đô thị và nông thôn, Bộ trưởng Bộ Xây dựng đề nghị: Quan điểm, mục tiêu phát triển cần bám sát các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp tại Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 24/01/2022 của Bộ Chính trị, các Nghị quyết về cơ chế chính sách đặc thù của các địa phương và các định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực có liên quan đã được cấp có thẩm quyền ban hành.

Phương hướng phát triển hệ thống đô thị, nông thôn và mối liên kết đô thị - nông thôn cần làm rõ nội dung tổ chức phân bố dân cư trong cấu trúc đô thị quốc gia được lựa chọn; nghiên cứu đánh giá tác động của xu hướng di dân ngày càng cao đến các vùng đô thị lớn.

Định hướng phát triển hệ thống đô thị cần gắn với các vùng kinh tế - xã hội, vùng kinh tế trọng điểm, vùng động lực và vùng đô thị lớn (vùng đô thị Hà Nội, TP.HCM); Định hướng quy hoạch, phát triển đô thị và quản lý đối với các loại hình đô thị mới như thông minh, xanh, ứng phó biến đổi khí hậu...

Bộ trưởng Bộ Xây dựng đồng thời đề nghị làm rõ vai trò, mối quan hệ, phạm vi ranh giới giữa vùng đô thị lớn đối với các vùng kinh tế trọng điểm và vùng động lực được đề xuất tại Quy hoạch tổng thể quốc gia; giữa hệ thống các đô thị trọng điểm, cực tăng trưởng gắn với không gian của 8 hành lang kinh tế Đông - Tây, hành lang kinh tế Bắc - Nam (là các tuyến giao thông đường bộ cao tốc, đường sắt, kết nối các cảng biển, cảng hàng không quốc tế, cửa khẩu quốc tế, đầu mối giao thương lớn). Bổ sung nội dung phương hướng phát triển đối với hệ thống đô thị ven biển và hải đảo.

Đề xuất rõ phương hướng, giải pháp phát triển hệ thống đô thị, nông thôn quốc gia và xác định rõ các tiêu chí để xác định các chương trình, dự án phát triển đô thị, nông thôn quan trọng; phát triển nhà ở, hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị cần được ưu tiên triển khai thực hiện.

Xác định cụ thể các nội dung, các chỉ tiêu cần quản lý theo quy hoạch tổng thể quốc gia; các chỉ tiêu cần khảo sát, quản lý theo quy hoạch ngành quốc gia. Các vấn đề, nội dung cụ thể sẽ được thể hiện rõ hơn trong quy hoạch hệ thống đô thị và nông thôn quốc gia.

Đối với nội dung Hợp phần thực trạng và phương hướng thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản làm vật liệu xây dựng, Bộ trưởng Nguyễn Thanh Nghị cho rằng, phần hiện trạng cần đánh giá kỹ hiện trạng các quy hoạch đã thực hiện, nêu mặt được, mặt còn hạn chế trong quá trình thực hiện, làm căn cứ đề xuất định hướng vào báo cáo quy hoạch tổng thể quốc gia.

Rà soát nội dung số liệu để thống nhất với số liệu đã thực hiện lập Quy hoạch thăm dò, khai thác chế biến và sử dụng các loại khoáng sản làm VLXD thời kỳ 2021 -2030 tầm nhìn đến năm 2050 đang thực hiện; cần có số liệu tổng hợp các loại khoáng sản chính đã thăm dò khai thác trên phạm vi toàn quốc.

Về phần định hướng, Bộ trưởng cho rằng hoạt động khoáng sản nói chung và khoáng sản làm VLXD nói riêng là một ngành kinh tế quan trọng đáp ứng nhu cầu cho quá trình và xây dựng phát triển đất nước, do đó nội dung báo cáo trong Hợp phần để việc sử dụng khoáng sản phục vụ ngành VLXD, đảm bảo hài hòa, gắn với bảo vệ môi trường, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên khoáng sản theo tinh thần Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 10/02/2022 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Chiến lược phát triển VLXD đã phê duyệt.

Hợp phần Quy hoạch khoáng sản làm VLXD trong quy hoạch tổng thể quốc gia phải đảm bảo tính định hướng thống nhất để các quy hoạch cấp thấp hơn thực hiện, đảm bảo không chồng chéo, mâu thuẫn.

Cần đánh giá bổ sung các đánh giá, khuyến khích khai thác khoáng sản để phát triển các loại vật liệu xanh, vật liệu mới, vật liệu nhằm giảm khai thác và sử dụng tài nguyên đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế tuần hoàn, tăng cường phát triển vật liệu xây dựng thay thế đáp ứng nhu cầu trên cả nước, đặc biệt các khu vực phía Nam.

Cần rà soát các nội dung trong Hợp phần quy hoạch để tích hợp bổ sung vào hồ sơ quy hoạch tổng thể quốc gia (tại Báo cáo thuyết minh, Nghị quyết của Quốc hội phê duyệt Quy hoạch tổng thể quốc gia) những vấn đề chính yếu; đề xuất các loại khoáng sản chính cần thăm dò khai thác tại các địa bàn trọng điểm trên phạm vi toàn quốc.

Bộ trưởng cho biết, những nội dung cụ thể chi tiết sẽ thể hiện rõ trong Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản làm VLXD đang được lập và sẽ trình, phê duyệt vào cuối năm 2022.

Bình luận