Sự cần thiết phải giám định tư pháp trong giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng

Bài viết phân tích một số quy định của pháp luật về giám định tư pháp trong giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng mà thực tiễn áp dụng đang gặp những tồn tại, vướng mắc và đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện…
Sự cần thiết phải giám định tư pháp trong giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng
Ảnh minh họa

Đặt vấn đề

Giám định tư pháp quy định giám định tư pháp nói chung và giám định tư pháp trong giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng là công việc hết sức cần thiết để xác định nguyên nhân, giá trị thiệt hại, xác định trách nhiệm các vụ việc và yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, bởi giám định tư pháp chính là việc người giám định tư pháp sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của pháp luật.

Trong phạm vi bài viết, tác giả tập trung trình bày, phân tích một số quy định của pháp luật về giám định tư pháp trong giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng mà thực tiễn áp dụng đang gặp phải những tồn tại, vướng mắc và đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện.

1. Pháp luật quy định về giám định tư pháp và vai trò của công tác giám định tư pháp trong giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng.

Nhằm cụ thể hóa Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, việc đổi mới và hoàn thiện các tổ chức bổ trợ tư pháp nói chung và giám định tư pháp nói riêng là một trong những nội dung quan trọng được đề cập trong nhiều Nghị quyết của Đảng.

Hơn nữa, do lĩnh vực xây dựng là lĩnh vực đặc thù có những điểm khác biệt so với các giám định tư pháp khác nên các cơ quan quản lý Nhà nước đã ưu tiên tập trung để hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực này. 

Về thể chế, công tác giám định tư pháp đã được hoàn thiện đánh dấu bằng Luật Giám định tư pháp năm 2012 và đã được sửa đổi, bổ sung năm 2018 và năm 2020 (Luật Giám định tư pháp); Nghị định số 85/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Giám định tư pháp; Nghị định số 157/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 85/2013/NĐ-CP và đặc biệt là Bộ Xây dựng ban hành Thông tư số 17/2021/TT-BXD quy định một số nội dung về giám định tư pháp trong lĩnh vực xây dựng. 

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS) cũng nhấn mạnh vai trò của hoạt động giám định trong trong việc thu thập chứng cứ tại các Điều 95, Điều 97 và Điều 102 trong quá trình giải quyết vụ án dân sự nói chung và các vụ án tranh chấp hợp đồng xây dựng nói riêng.

Theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 3 Luật Giám định tư pháp, việc giám định tư pháp được thực hiện theo đề nghị của người trưng cầu giám định hoặc người yêu cầu giám định.

Người trưng cầu giám định bao gồm cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người yêu cầu giám định là người có quyền tự mình yêu cầu giám định sau khi đã đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định mà không được chấp nhận. 

Điều 102 BLTTDS quy định, theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định; sau khi đã đề nghị Tòa án trưng cầu giám định nhưng Tòa án từ chối yêu cầu thì đương sự có quyền tự mình yêu cầu giám định. Quyền tự yêu cầu giám định được thực hiện trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự. 

Quyết định trưng cầu giám định phải ghi rõ tên, địa chỉ của người giám định, đối tượng cần giám định, vấn đề cần giám định, các yêu cầu cụ thể cần có kết luận của người giám định và gửi kèm theo đối tượng giám định, thông tin, tài liệu, đồ vật có liên quan đến người giám định (Điều 25 Luật Giám định tư pháp).

Trường hợp đối tượng giám định, thông tin, tài liệu, đồ vật có liên quan không thể gửi kèm theo quyết định trưng cầu giám định thì người trưng cầu giám định có trách nhiệm làm thủ tục bàn giao cho người giám định.

Trường hợp trưng cầu giám định bổ sung hoặc trưng cầu giám định lại thì quyết định trưng cầu giám định phải ghi rõ là trưng cầu giám định bổ sung hoặc trưng cầu giám định lại và lý do của việc giám định bổ sung hoặc giám định lại.

Trường hợp tự mình yêu cầu giám định thì đương sự phải gửi văn bản yêu cầu giám định kèm theo đối tượng giám định, các tài liệu, đồ vật có liên quan (nếu có) và bản sao giấy tờ chứng minh mình là đương sự trong vụ việc dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự đến người giám định (Điều 26 Luật Trưng cầu giám định). 

Việc giám định bổ sung được thực hiện trong trường hợp nội dung kết luận giám định chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc khi phát sinh vấn đề mới liên quan đến tình tiết của vụ án, vụ việc đã được kết luận giám định trước đó.

Việc trưng cầu, yêu cầu giám định bổ sung được thực hiện như giám định lần đầu. Việc giám định lại được thực hiện trong trường hợp có căn cứ cho rằng kết luận giám định lần đầu không chính xác hoặc trong trường hợp đặc biệt, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định việc giám định lại sau khi đã có kết luận của Hội đồng giám định.

Người trưng cầu giám định tự mình hoặc theo đề nghị của người yêu cầu giám định quyết định việc trưng cầu giám định lại. Trường hợp người trưng cầu giám định không chấp nhận yêu cầu giám định lại thì phải thông báo cho người yêu cầu giám định bằng văn bản và nêu rõ lý do (Điều 29, 30 Luật Giám định tư pháp).  

Giám định tư pháp trong lĩnh vực xây dựng là việc tổ chức hoạt động giám định trong lĩnh vực xây dựng, theo đó cá nhân được cấp Thẻ giám định viên tư pháp xây dựng sử dụng kiến thức, nghiệp vụ chuyên môn để đánh giá, kết luận về những vấn đề có liên quan trong lĩnh vực xây dựng.

Việc giám định tư pháp trong lĩnh vực xây dựng được thực hiện theo quy định của pháp luật về giám định tư pháp nói chung và giám định tư pháp trong lĩnh vực xây dựng nói riêng. 

Điều 3 Thông tư 17 nêu rõ 3 nội dung giám định tư pháp xây dựng, bao gồm: (i) Giám định tư pháp về sự tuân thủ các quy định của pháp luật quy hoạch xây dựng, hoạt động đầu tư xây dựng, nhà ở và kinh doanh BĐS; (ii) Giám định tư pháp về chất lượng xây dựng, bao gồm: Giám định chất lượng khảo sát xây dựng, thiết kế xây dựng, VLXD, cấu kiện, sản phẩm xây dựng, thiết bị công trình, bộ phận công trình, công trình xây dựng; giám định nguyên nhân sự cố công trình xây dựng, nguyên nhân hư hỏng công trình xây dựng và (iii) Giám định tư pháp về chi phí xây dựng công trình, bao gồm: giám định về tổng mức đầu tư, dự toán xây dựng công trình, giá gói thầu xây dựng; thanh toán và quyết toán hợp đồng xây dựng, thanh toán và quyết toán vốn đầu tư xây dựng và các vấn đề khác có liên quan; giám định tư pháp về giá trị nhà ở và BĐS.

Trong giải quyết các tranh chấp hợp đồng xây dựng, kết luận giám định cung cấp cho các bên trong quan hệ tố tụng những thông tin cần thiết làm căn cứ để đưa ra các lập luận, quan điểm của mình trong việc chứng minh sự thật của vụ án và giải quyết vụ án.

Kết luận giám định là một loại phương tiện chứng minh rất quan trọng, mang tính khoa học cao, vì nó là kết quả của việc sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật nghiệp vụ để xác định sự thật cần chứng minh.

Khoa học càng phát triển nhất là khoa học về giám định, kết luận giám định càng có giá trị chứng minh cao và càng thuyết phục khi được sử dụng làm phương tiện chứng minh trong quá trình tố tụng.

Do đó, việc trưng cầu giám định, đánh giá kết luận giám định, sử dụng kết luận giám định trong một vụ án là rất quan trọng, nhất là trong trường hợp có nhiều kết quả giám định khác nhau cho cùng một đối tượng.

Sử dụng kết luận giám định trong những vụ án là nguồn chứng cứ quyết định kết quả giải quyết vụ án, khai thông bế tắc các vụ án phức tạp. Đặc biệt là kết luận giám định sẽ chứng minh sự thật của vụ án.

Thực tế cho thấy, kết luận giám định không những đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp hợp đồng xây dựng, mà còn hơn thế nữa, trong rất nhiều trường hợp, kết luận giám định trong lĩnh vực xây dựng là không thể thiếu trong quá trình giải quyết của Tòa án, đặc biệt là các vụ án tranh chấp hợp đồng xây dựng về khối lượng.

Thậm chí, trong nhiều vụ tranh chấp hợp đồng xây dựng, kết luận giám định mang tính chất quyết định duy nhất để chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của các bên đương sự.

Bên cạnh tầm quan trọng của kết luận giám định, trình tự, thủ tục trưng cầu giám định, yêu cầu giám định cũng đóng một vai trò quan trọng không kém đối với kết quả giải quyết vụ án, đặc biệt là trong trường hợp đương sự tự mình yêu cầu giám định. 

Theo quy định tại Điều 25 Luật Giám định tư pháp và Điều 102 BLTTDS, khi Tòa án đang thụ lý giải quyết tranh chấp thì Tòa án là cơ quan có thẩm quyền quyết định trưng cầu giám định; đương sự chỉ có quyền tự mình yêu cầu giám định sau khi Tòa án từ chối yêu cầu của giám định của đương sự, đồng thời việc đương sự tự mình yêu cầu giám định phải được thực hiện trước khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự. 

Hay nói cách khác, nếu đương sự không yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định hoặc đương sự có yêu cầu nhưng chưa nhận được văn bản từ chối của Tòa án thì đương sự không có quyền tự mình yêu cầu giám định; sau khi Tòa án đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm hoặc tại giai đoạn xét xử phúc thẩm thì đương sự cũng không có quyền tự mình yêu cầu giám định. 

Theo quy định của pháp luật về giám định tư pháp: Yêu cầu giám định phải lập thành hợp đồng dịch vụ giám định giữa người yêu cầu giám định với tổ chức giám định hoặc với giám định viên.

Hợp đồng dịch vụ giám định phải có các nội dung chủ yếu sau đây: Tên, địa chỉ của tổ chức, cá nhân yêu cầu giám định; Tên, địa chỉ của tổ chức giám định hoặc giám định viên; Nội dung cần giám định; Các chứng cứ, tài liệu, hiện vật có liên quan; Thời hạn trả kết luận giám định; Quyền và nghĩa vụ của các bên; Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng. 

2. Những vấn đề tồn tại cần khắc phục

Trong quá trình áp dụng pháp luật trong giải quyết một số vụ án tranh chấp hợp đồng xây dựng tại Tòa án đã phát sinh một số tồn tại sau đây:

Thứ nhất, khi giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng tại Tòa án, pháp luật quy định Tòa án là cơ quan có thẩm quyền trưng cầu giám định, theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định. Tuy nhiên, pháp luật lại không quy định ràng buộc trách nhiệm của Thẩm phán trong việc chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu giám định của đương sự. 

Khoản 2 Điều 97 BLTTDS quy định Tòa án có thể trưng cầu giám định để thu thập chứng cứ, cụm từ “có thể” tạo cho Thẩm phán quyền tùy nghi, không quy định rõ trường hợp nào bắt buộc phải trưng cầu giám định, trường hợp nào không. Vấn đề này ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền của đương sự. 

Điều 70 BLTTDS quy định đương sự có quyền đề nghị Tòa án trưng cầu giám định, nhưng Bộ luật này lại không có quy định cho quyền này của đương sự được đảm bảo thực hiện. 

Thứ hai, pháp luật quy định đương sự được tự mình yêu cầu giám định sau khi đã đề nghị Tòa án trưng cầu giám định nhưng Tòa án từ chối yêu cầu; quyền tự yêu cầu giám định được thực hiện trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự. 

Ngoài ra, trong quá trình xét xử nhiều vụ án tranh chấp hợp đồng xây dựng có tính chất phức tạp nhưng Tòa án không ban hành quyết định trưng cầu giám định.

Sau khi nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án và tham gia xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, mặc dù kiểm sát viên và đương sự đã yêu cầu Hội đồng xét xử cần thiết phải ban hành quyết định trưng cầu giám định tư pháp trong lĩnh vực xây dựng với nội dung, đối tượng yêu cầu giám định cụ thể theo quy định tại Thông tư 17 để có nguồn chứng cứ vững chắc cho việc giải quyết toàn diện vụ án.

Thế nhưng, sau khi nhận được đơn đề nghị, kiến nghị trưng cầu giám định của đương sự và kiểm sát viên, Tòa án vẫn không tiến hành giám định, cũng không gửi văn bản từ chối hoặc gửi văn bản từ chối thì làm sao đương sự có thể tự mình yêu cầu giám định theo đúng các thủ tục pháp luật quy định.

Thứ ba, Trong nhiều phiên tòa xét xử vụ án tranh chấp hợp đồng xây dựng, mặc dù kiểm sát viên và đương sự đã đề nghị Hội đồng xét xử cho tạm ngừng phiên tòa để thực hiện việc ban hành quyết định trưng cầu giám định trong lĩnh vực xây dựng theo duy định tại điểm c, khoản 1 Điều 259 BLTTDS. Tuy nhiên, trong Quyết định tạm ngừng phiên tòa, Hội đồng xét xử không ghi rõ lý do tạm ngừng như kiến nghị của Kiểm sát viên và đương sự, mà chỉ lấy lý do chung chung là để thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ, nên khi phiên tòa được mở lại thì Hội đồng xét xử cũng không nhắc gì đến việc chấp nhận hay từ chối kiến nghị của kiểm sat viên và đương sự là vi phạm khoản 2 Điều 259 BLTTDS vì việc tạm ngừng phiên tòa phải được ghi rõ vào biên bản phiên tòa.

3. Kiến nghị để khắc phục và hoàn thiện

Để khắc phục kịp thời các tồn tại nêu trên, tác giả kiến nghị:

Một là, Tòa án nhân dân cối cao cần bổ sung hướng dẫn quy định về trách nhiệm của Tòa án đối với đề nghị giám định của đương sự, cụ thể: Sau khi nhận được đơn đề nghị trưng cầu giám định của đương sự, Thẩm phán phải trả lời bằng văn bản về việc chấp nhận trưng cầu giám định hay từ chối; trường hợp từ chối, phải thông báo cho đương sự biết trong thời hạn bao lâu, đương sự được quyền tự mình yêu cầu giám định.

Hai là, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần phối hợp kịp thời để có hướng dẫn nhất quán, cụ thể đối với công tác giám định tư pháp trong các các vụ án tranh chấp hợp đồng xây dựng, tránh việc sử dụng quyền năng một cách tùy tiện trong quá trình xét xử của Thẩm phán về việc có chấp nhận hay từ chối yêu cầu trưng cầu giám định tư pháp trong lĩnh vực xây dựng của đương sự để khắc phục việc BLTTDS chưa có quy định ràng buộc trách nhiệm của Thẩm phán trong việc chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu giám định của đương sự, gây mất lòng tin cho cả chủ đầu tư và nhà thầu.

Ba là, cần quy định cụ thể về thời gian trưng cầu giám định, yêu cầu giám định và thời hạn giám định của cá nhân, đơn vị thực hiện giám định, hạn chế việc kéo dài thời gian ảnh hưởng đến thời hạn giải quyết vụ án, tránh trường hợp nhiều vụ án phải tạm đình chỉ để chờ kết quả giám định.

 

Tài liệu tham khảo:
1. Luật Giám định tư pháp 2012, Luật sửa đổi, bổ sung năm 2018 và năm 2020;
2. Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
3. Nghị định số 85/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Giám định tư pháp; 
4. Nghị định số 157/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 85/2013/NĐ-CP;
5. Thông tư số 17/2021/TT-BXD ngày quy định một số nội dung về giám định tư pháp trong lĩnh vực xây dựng.

Bình luận