Sửa đổi quy định Hệ thống bảo đảm gỗ hợp pháp Việt Nam

07:40 01/10/2024
Nghị định mới được ban hành quy định Hệ thống bảo đảm gỗ hợp pháp Việt Nam đối với nhập khẩu, xuất khẩu; tiêu chí, thẩm quyền, trình tự, thủ tục phân loại doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gỗ.

Cụ thể, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2024/NĐ-CP ngày 30/9/2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 102/2020/NĐ-CP ngày 01/9/2020 của Chính phủ quy định Hệ thống bảo đảm gỗ hợp pháp Việt Nam.

Chính phủ sửa đổi quy định Hệ thống bảo đảm gỗ hợp pháp Việt Nam. Ảnh internet

Danh sách quốc gia, vùng lãnh thổ thuộc vùng địa lý tích cực

Nghị định số 120/2024/NĐ-CP đã bổ sung quy định về quốc gia, vùng lãnh thổ thuộc vùng địa lý tích cực, không thuộc vùng địa lý tích cực.

Theo đó, quốc gia, vùng lãnh thổ thuộc vùng địa lý tích cực khi bảo đảm một trong các tiêu chí sau: Có hệ thống bảo đảm gỗ hợp pháp và cấp giấy phép FLEGT đang vận hành; có quy định pháp luật quốc gia, vùng lãnh thổ về trách nhiệm giải trình tính hợp pháp của gỗ cho toàn bộ chuỗi cung ứng từ quốc gia, vùng lãnh thổ nơi khai thác phù hợp với Hệ thống bảo đảm gỗ hợp pháp Việt Nam; có chỉ số hiệu quả Chính phủ từ 0 trở lên theo xếp hạng gần nhất trước đó của Ngân hàng Thế giới về chỉ số quản trị toàn cầu (WGI); có hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thực thi CITES được xếp loại I do Ban thư ký CITES công bố...

Cũng theo Nghị định, quốc gia, vùng lãnh thổ không thuộc vùng địa lý tích cực khi thuộc một trong các trường hợp sau: quốc gia, vùng lãnh thổ không đáp ứng tiêu chí trên; quốc gia, vùng lãnh thổ đáp ứng tiêu chí trên nhưng có bằng chứng khai thác, buôn bán gỗ bất hợp pháp hoặc sử dụng tài liệu giả mạo theo quy định pháp luật của các quốc gia liên quan.

Bên cạnh đó, Nghị định nêu rõ danh sách quốc gia, vùng lãnh thổ thuộc vùng địa lý tích cực do Bộ NN&PTNT chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan và tổ chức được quy định trong điều ước hoặc thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam là thành viên xác định.

Danh mục loài gỗ rủi ro

Theo Nghị định số 120/2024/NĐ-CP, gỗ thuộc Danh mục loài rủi ro nếu thuộc một trong các tiêu chí sau: Gỗ thuộc các phụ lục của Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp (Phụ lục CITES); gỗ thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IA, Nhóm IIA; Danh mục các loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ theo quy định của pháp luật Việt Nam; loài gỗ lần đầu nhập khẩu vào Việt Nam; gỗ có nguy cơ bị đe dọa tuyệt chủng tại quốc gia, vùng lãnh thổ khai thác hoặc gỗ khai thác, buôn bán trái phép hoặc gỗ do sử dụng tài liệu giả mạo để chứng nhận hợp pháp.

Nghị định cũng nêu rõ, gỗ không thuộc loài rủi ro khi không thuộc các tiêu chí trên.

Danh mục loài gỗ đã nhập khẩu vào Việt Nam bao gồm tên khoa học, tên thương mại tiếng Việt, tiếng Anh (nếu có) do Bộ NN&PTNT chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính xác định.

Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 15/11/2024. Doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gỗ đã nộp hồ sơ đăng ký phân loại doanh nghiệp trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành thì tiếp tục thực hiện phân loại doanh nghiệp theo quy định tại Nghị định số 102/2020/NĐ-CP.

Theo số liệu của Cục Lâm nghiệp (Bộ NN&PTNT), trong nửa đầu năm 2024, xuất khẩu gỗ và lâm sản thu về 7,95 tỷ USD, tăng 21,2% so với cùng kỳ năm 2023 và đạt 52,3% so với kế hoạch của cả năm.

Một số thị trường chính tăng mạnh như: Hoa Kỳ đạt 4,38 tỷ USD, tăng 27,6% so với cùng kỳ năm 2023; Trung Quốc đạt 1,059 tỷ USD, tăng 46,6%.

Ở chiều ngược lại, giá trị nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 1,29 tỷ USD, tăng 19% so với cùng kỳ năm 2023.

Bình luận