Tăng trưởng xanh là định hướng chiến lược của Chính phủ
Trao đổi tại Tọa đàm "Tăng trưởng xanh - Xu thế toàn cầu, sự lựa chọn tất yếu" do Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức chiều 28/11, ông Lê Việt Anh - Vụ trưởng Vụ Khoa học, Giáo dục, Tài nguyên và Môi trường (Bộ KH&ĐT) cho biết, Chính phủ đã ban hành Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh cho giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, đồng thời xây dựng các kế hoạch hành động quốc gia nhằm thúc đẩy việc áp dụng các giải pháp xanh trong mọi lĩnh vực kinh tế.
Trong đó, có các chính sách ưu đãi tài chính và phi tài chính cho các doanh nghiệp tham gia vào quá trình này như ưu đãi thuế, tiếp cận tài chính và các quy định về lãi suất…để thực hiện các dự án phát triển bền vững.
"Điều đó cho thấy, Việt Nam xác định tăng trưởng xanh là một định hướng rất quan trọng cho kinh tế - xã hội trong giai đoạn tiếp theo. Tất cả các bên liên quan đều có trách nhiệm, nghĩa vụ tham gia vào tiến trình tăng trưởng xanh của nền kinh tế quốc gia", ông Lê Việt Anh nói.
Theo ông Lê Việt Anh, khuôn khổ chính sách dành cho tăng trưởng xanh ngày càng rõ ràng hơn, minh bạch và cụ thể hơn để doanh nghiệp hiểu và áp dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh của mình.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, chính sách về tăng trưởng xanh cũng còn nhiều điểm cần tiếp tục hoàn thiện, dư địa dành cho nội dung hoàn thiện này còn rất lớn.
Nhấn mạnh tầm quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng xanh tại Việt Nam, ông Quách Quang Đông - Phó Vụ trưởng Vụ Tiết kiệm năng lượng và phát triển bền vững (Bộ Công Thương) cho biết, Việt Nam hiện đang tham gia Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) không chỉ mở ra cơ hội xuất khẩu cho doanh nghiệp Việt Nam mà còn yêu cầu các doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng sản phẩm và đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường khắt khe hơn.
Điều này đặt ra thách thức lớn cho các doanh nghiệp trong việc duy trì lợi thế cạnh tranh về giá trong khi vẫn phải tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường quốc tế. Chính vì vậy, việc chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng xanh không chỉ là một xu thế mà còn là một yêu cầu tất yếu để doanh nghiệp Việt có thể hội nhập và phát triển bền vững trong môi trường kinh tế toàn cầu.
Ông Quách Quang Đông cũng chỉ rõ những khó khăn và rào cản mà doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt như: những quy định trong các Hiệp định này tạo ra thách thức đối với những nước phát triển trong việc bảo vệ nền sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh về giá thành sản xuất từ các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, vốn có lợi thế về giá nhân công thấp hơn, về chi phí năng lượng thấp hơn cũng như những tiêu chuẩn về môi trường.
Điều này cũng đặt ra những khó khăn, thách thức đối với các nước phát triển. Họ dựng lên và áp dụng thêm hàng rào kỹ thuật, trong đó có liên quan đến những yếu tố như chất lượng hàng hóa, xuất xứ nguồn gốc hay những tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường, từ đó hạn chế sản phẩm giá rẻ từ những nước đang phát triển. Với những mức thuế nhập khẩu tại các nước tham gia Hiệp định tự do thương mại thế hệ mới có thể về đến 0 phần trăm, đây sẽ là cơ hội rất lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam muốn vươn ra thế giới.
Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải quyết liệt đổi mới tư duy, đổi mới chiến lược để đáp ứng những yêu cầu về phát triển bền vững và tăng trưởng xanh. Nghĩa là phải lưu ý các yếu tố liên quan đến chất lượng hàng hóa và những tiêu chuẩn về môi trường và chúng ta phải tuân thủ luật chơi của các nước phát triển.
Xây dựng khung pháp lý cho phát triển bền vững
Tiến trình tăng trưởng bền vững và tăng trưởng xanh hiện nay vẫn còn nhiều rào cản và thách thức. Trong đó, các doanh nghiệp chưa thể xác định được mình sẽ được hưởng cơ chế ưu đãi nào. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến quyết định đầu tư mà còn làm giảm động lực của doanh nghiệp trong việc chuyển đổi mô hình kinh doanh sang bền vững và xanh.
Việc thay đổi dây chuyền công nghệ hay đầu tư vào công nghệ xanh có thể tốn kém rất nhiều chi phí. Ngoài ra, sự thiếu hụt các nguồn tài chính hỗ trợ cho chuyển đổi xanh cũng là một yếu tố cản trở lớn…
Đề cập đến các giải pháp trong thời gian tới, dưới góc nhìn doanh nghiệp, ông Binu Jacob - Tổng giám đốc Công ty Nestlé Việt Namcho rằng, cần phải cải thiện khung khổ pháp lý để thúc đẩy hơn nữa tăng trưởng xanh, tăng trưởng bền vững. Tiếp đến, phát triển nguồn nhân lực để có thể triển khai việc phát triển bền vững, phát triển xanh. Cuối cùng, cần xây dựng những sáng kiến, mô hình ở địa phương bởi những mô hình tăng trưởng bền vững, mô hình tăng trưởng xanh chúng ta thường thấy trên thế giới cũng phải điều chỉnh cho phù hợp với từng địa phương, chứ không phải bê nguyên mẫu để áp dụng.
Ở góc độ ngành Công Thương, ông Quách Quang Đông cho rằng, cơ chế, chính sách cần có những nhận định, phân tích, đánh giá, đồng thời phải có sự ghi nhận, cổ vũ và hỗ trợ để tăng cường nhận thức và định hướng cho việc tiêu dùng và sản xuất bền vững, hướng tới hàng hoá, dịch vụ xanh, sạch. Cần tạo động lực cho doanh nghiệp đi đầu, tiên phong, giữ những vị trí đầu tàu, dẫn dắt, từ đó lan toả để thu hút các doanh nghiệp khác đi theo.
Để hỗ trợ doanh nghiệp, Chính phủ, các Bộ, ngành cần bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách đáp ứng với bối cảnh, tình hình mới của thế giới, đồng thời bảo vệ những lợi ích chính đáng của doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp phát triển và hạn chế rủi ro. Tăng cường hơn nữa sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành cũng như giữa Trung ương và địa phương.
Đại diện Bộ KH&ĐT, ông Lê Việt Anh cũng khẳng định, một trong những nhiệm vụ quan trọng của Chính phủ trong thời gian tới là hoàn thiện hệ thống khung pháp lý dành cho phát triển bền vững và tăng trưởng xanh.
Đặc biệt, ông Lê Việt Anh nhấn mạnh vai trò của hệ thống phân loại xanh quốc gia. Đây là công cụ quan trọng để xác định các tiêu chí và tiêu chuẩn cho các doanh nghiệp và dự án đầu tư xanh.
Chính phủ Việt Nam đã có những chỉ đạo rõ ràng về việc xây dựng hệ thống này và hiện nay các bộ ngành, cơ quan liên quan đang phối hợp để xây dựng hệ thống phân loại xanh đạt chuẩn mực quốc tế, đồng thời đảm bảo tính linh hoạt để cập nhật công nghệ mới và các mô hình kinh doanh xanh.
“Chúng tôi cam kết rằng hệ thống này sẽ tạo ra được cơ chế, chính sách phù hợp và rõ ràng nhất đối với các doanh nghiệp, để doanh nghiệp biết mình cần phải đáp ứng điều kiện gì và sẽ được những ưu đãi, khuyến khích gì trong cơ chế chính sách quốc gia. Hệ thống phân loại xanh này cũng sẽ đảm bảo được tính tiến bộ và có thể linh hoạt thay đổi hoặc bổ sung”, ông Lê Việt Anh nhấn mạnh.