

Thách thức và giải pháp
Trong 15 năm qua, kinh tế số Việt Nam đã phát triển nhanh chóng cả nền tảng hạ tầng lẫn thị trường kinh doanh. Với dân số gần 100 triệu người, Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế số ở mức khá trong khu vực ASEAN. Việt Nam đã ghi nhận sự xuất hiện xu hướng số hóa ở nhiều lĩnh vực, ngành kinh tế, từ thương mại, thanh toán cho đến giao thông, giáo dục, y tế… Đến nay, Việt Nam có khoảng 64 triệu người dùng internet, trung bình 1 ngày người Việt dành 3 giờ 12 phút sử dụng internet trên thiết bị di động như điện thoại thông minh.
Về thể chế: Việt Nam đã thể hiện rõ đường lối, chính sách, chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế số gắn liền với chuyển đối số quốc gia. Chương trình chuyển đổi số quốc gia; Chiến lược quốc gia về phát triển kinh tế số, xã hội số… đã được ban hành. Đồng thời, bộ chỉ tiêu, công cụ đo lường kinh tế số đã được ban hành nhằm đánh giá hoạt động kinh tế số của Việt Nam.
Về hạ tầng số: Việt Nam tuy đi sau nhiều nước về công nghiệp nặng, công nghiệp cơ khí, công nghiệp vật liệu… nhưng khi bước cách mạng 4.0, mà cốt lõi công nghệ số, nước ta đã xác định hạ tầng số phải đi trước một bước và quan tâm phát triển hạ tầng số. Các năm gần đây, có thể thấy sự phát triển mạnh mẽ của nhiều doanh nghiệp công nghệ của Việt Nam. Hiện chúng ta có gần 50 nghìn doanh nghiệp công nghệ số và sắp tới có khả năng đạt 100 nghìn doanh nghiệp công nghệ số. Đây là những doanh nghiệp xung kích để Việt Nam chuyển đổi số và là thế mạnh để phát triển kinh tế của đất nước.
Theo số liệu của Bộ TT&TT (cũ), năm 2022 hệ thống cáp quang được xây dựng tới 100% các xã, phường, thị trấn, 91% thôn bản, 100% trường học. Mạng truyền số liệu chuyên dụng được kết nối tới 100% cấp xã. Giao thức liên mạng thế hệ 6 (IPv6) đã được triển khai, đạt trên 50% tỷ lệ sử dụng, đứng thứ 10 thế giới. Tên miền quốc gia “.vn” đứng thứ 2 ASEAN, đứng thứ 11 trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương và đứng thứ 43 toàn cầu. Hoạt động an toàn thông tin mạng ngày càng được quan tâm triển khai thực hiện, đảm bảo tốt cho các hoạt động kinh tế số.
Về quy mô và chất lượng phát triển: Tỷ lệ giá trị Việt Nam trong các sản phẩm công nghệ số tăng dần, có khoảng 60% doanh nghiệp đang làm gia công chuyển từ gia công từng công đoạn có giá trị thấp sang làm toàn bộ giải pháp, sản phẩm giá trị cao. Các doanh nghiệp đã thay đổi và thích ứng với mô hình kinh doanh mới, quan tâm đầu tư phát triển kinh doanh trực tuyến, khai thác ở nhiều kênh khác nhau, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Đồng thời, với độ phủ rộng của Internet ở Việt Nam, người dân đã dần quen với kênh mua hàng trực tuyến. Điều này được thể hiện thông qua tốc độ tăng trưởng của thương mại điện tử qua các năm. Thương mại điện tử có sự phát triển nhanh, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế số.
Thách thức về thể chế, chính sách: Dù khung khổ pháp lý có những bước tiến nhất định với nhiều bộ luật như Luật Giao dịch điện tử (2005), Luật Công nghệ thông tin (2006), Luật Tần số vô tuyến điện (2009), Luật An ninh mạng (2018)… tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế, sự chuẩn bị luôn ở thế bị động. Bộ chỉ tiêu, công cụ đo lường kinh tế số đã được ban hành nhưng chưa hoàn thiện do chưa có phương pháp đo lường thống nhất trên thế giới và Việt Nam.
Thách thức về hạ tầng số: Mặc dù đã có sự phát triển, hạ tầng viễn thông mặc dù là điểm mạnh, nhưng chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của kinh tế số. So với khu vực và thế giới, tốc độ mạng băng rộng cố định, di động ở Việt Nam đạt ở mức trung bình khá. Việc kết nối, chia sẻ dữ liệu hai chiều từ hệ thống thông tin của các bộ ngành, địa phương với dữ liệu quốc gia chưa đầy đủ, chưa đồng bộ, việc chia sẻ dữ liệu còn nhiều ách tắc, mới chỉ đạt 9%. Việt Nam là một trong những quốc gia có chỉ số an toàn an ninh thông tin ở mức thấp, đặc biệt là ở khối doanh nghiệp.
Thách thức về nhân lực: Nhân lực công nghệ thông tin - nhân tố quan trọng nhất trong cạnh tranh và phát triển kinh tế số, còn ít về số lượng, không phù hợp về cơ cấu, chưa bảo đảm về chất lượng, nhất là nhân lực chất lượng cao và an toàn thông tin còn rất thiếu, là một trong những mối thách thức lớn đối với quá trình phát triển kinh tế số tại Việt Nam
Trong bối cảnh cuộc cách mạng 4.0 diễn ra mạnh mẽ, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số trở thành một nhiệm vụ trọng tâm của ngành Xây dựng; hướng tới mục tiêu chính là tối ưu hóa hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả trong quản lý; tăng năng suất, rút ngắn tiến độ, nâng cao chất lượng, tối ưu hiệu quả kinh tế, đảm bảo an toàn lao động và môi trường, tăng tính cạnh tranh trong hoạt động đầu tư xây dựng, hướng tới ngành Xây dựng là ngành kinh tế số đầy đủ, hiện đại.
Chuyển đổi số, phát triển kinh tế số trong ngành Xây dựng diễn ra trên hai phương diện: Trong quản lý nhà nước về xây dựng và trong các doanh nghiệp, nhà thầu xây dựng. Ngày 31/7/2020, Bộ trưởng Bộ Xây dựng ký Quyết định số 1004/QĐ-BXD về việc phê duyệt “Kế hoạch chuyển đổi số ngành Xây dựng giai đoạn 2020 - 2025, định hướng đến năm 2030”, đặt ra 6 mục tiêu cụ thể:
Một là, Hoàn thiện thể chế để phục vụ tiến trình chuyển đổi số: Nâng cấp các quy định, các quy chế để tạo thành nền tảng pháp lý vững chắc cho công cuộc chuyển đổi số, phát triển kinh tế số trong ngành Xây dựng.
Hai là, Xây dựng và triển khai chính phủ điện tử, hoàn thành chính phủ điện tử của Bộ Xây dựng và hướng tới chính phủ số vào năm 2025.
Ba là, Phát triển cơ sở dữ liệu số phục vụ quản lý quốc gia: Xây dựng hệ thống dữ liệu số toàn diện, bao gồm văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chuẩn, giá thành xây dựng, nhà ở, cao ốc, thị trường bất động sản, vật liệu xây dựng, quy hoạch đô thị và các chứng chỉ hành nghề trong lĩnh vực xây dựng.
Bốn là, Phối hợp với các địa phương để thực hiện chuyển đổi số: Tập trung chuyển đổi số trong hạng mục quản lý quy hoạch, cấp giấy phép xây dựng và quản lý các hoạt động xây dựng tại địa phương, đặc biệt là các thành phố lớn như Hà Nội và TP.HCM.
Năm là, Ứng dụng các công nghệ số trong những lĩnh vực chuyên ngành: Triển khai GIS trong quy hoạch, sử dụng BIM trong đầu tư xây dựng, cùng các công nghệ số tiên tiến như trí tuệ nhân tạo (AI), internet vạn vật (IoT), người máy (Robot)… trong hoạt động quản lý vận hành tòa nhà, chung cư, hệ thống hạ tầng đô thị, trong thi công và sản xuất vật tư, vật liệu xây dựng.
Sáu là, Phát triển đội ngũ nhân lực chất lượng cao đáp ứng các yêu cầu của công cuộc chuyển đổi số, phát triển kinh tế số.
Kế hoạch chuyển đổi số ngành Xây dựng cũng xác định 6 nhóm lĩnh vực trọng điểm tại cấp Sở, bao gồm:
(i). Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu và số hóa các thủ tục hành chính, hỗ trợ quản lý nhà nước về quản lý xây dựng tại các địa phương và tỉnh thành.
(ii). Thực hiện xây dựng chính phủ điện tử ngành Xây dựng và đẩy mạnh kế hoạch số hóa trong toàn Ngành.
(iii). Cải tiến các hoạt động xây dựng, bao gồm tư vấn, thiết kế, thẩm định, thi công và nghiệm thu các công trình.
(iv). Tối ưu hóa quy trình khai thác và sản xuất vật tư, vật liệu xây dựng.
(v). Phát triển và quy hoạch khu đô thị thông minh và xây dựng các hạ tầng kỹ thuật hiện đại.
(vi). Thắt chặt công tác quản lý nhà ở, cao ốc và thị trường BĐS.
Nhóm giải pháp thứ nhất - đối với cơ quan quản lý
Một là, cần thể chế hoá, Luật hoá đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về kinh tế số, bảo đảm cơ sở pháp lý đầy đủ, vững chắc, thống nhất, đồng bộ nhằm đảm bảo cho việc phát triển kinh tế số một cách đầy đủ, hiệu lực và hiệu quả.
Hai là, nghiên cứu, đề xuất những chính sách ưu đãi về thuế cho các lĩnh vực ưu tiên phát triển. Có chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, phát triển, kinh doanh công nghệ mới, xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo nền kinh tế số ở Việt Nam.
Ba là, đầu tư nâng cấp hạ tầng kỹ thuật số cũng như các giải pháp công nghệ số hiện đại để triển khai ứng dụng số kết nối thông minh; nâng cao hiệu quả chính phủ điện tử; bảo đảm an toàn, an ninh mạng, tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp được thừa hưởng những tiện ích do kinh tế số mang lại.
Bốn là, nâng cao hiệu quả quản lý các nền tảng số toàn cầu hoạt động xuyên biên giới tại Việt Nam; tạo môi trường cạnh tranh công bằng, bình đẳng, cùng có lợi đối với doanh nghiệp kinh tế số trong nước.
Nhóm giải pháp thứ hai - đối với cộng đồng doanh nghiệp
Một là, nâng cao nhận thức chung, nhất là với người đứng đầu và đội ngũ quản lý doanh nghiệp về phát triển nền kinh tế số.
Hai là, các doanh nghiệp cần tích cực chuẩn bị để nắm bắt cơ hội, cũng như bảo đảm tính cạnh tranh quốc tế trong nền kinh tế số toàn cầu; đẩy mạnh đầu tư cho hạ tầng công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực khi tham gia vào nền kinh tế số.
Nhóm giải pháp thứ ba - về đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
Một là, cần mở rộng và thúc đẩycác hình thức hợp tác đào tạo giữa các nhà trường, viện nghiên cứu và tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước trong đào tạo nhân lực kinh tế số; hỗ trợ sinh viên thực tập, làm việc thực tế ở các doanh nghiệp kinh tế số.
Hai là, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp tư nhân thực hiện, triển khai các chương trình đào tạo ngắn hạn về kinh tế số cho người lao động.
Ba là, đầu tư phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao về kinh tế số; nhân lực chuyên trách về an toàn thông tin. Đồng thời có các chính sách thu hút và giữ chân nhân lực có chất lượng cao liên quan đến kinh tế số và an toàn thông tin.
Bốn là, xây dựng mạng lưới, kết nối các chuyên gia, nhà khoa học nhằm thúc đẩy gắn kết nghiên cứu, chia sẻ tri thức về hoạt động của kinh tế số.
Năm là, cần tích hợp nội dung đào tạo về kinh tế số trong các chương trình giàng dạy về quản lý kinh tế, quản trị kinh doanh, tài chính - ngân hàng…
Thời đại ngày nay, các thành tựu khoa học công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nhất là công nghệ số trên thế giới phát triển với tốc độ như vũ bão, tạo ra cơ hội, điều kiện thuận lợi để đất nước ta thực hiện phương thức phát triển đi tắt, đón đầu. Kinh tế số hoạt động trên nền tảng công nghệ số chính là một hình thức cụ thể của kinh tế tri thức mà đất nước ta cần xây dựng, vì thế ta có thể tận dụng, nắm bắt được cơ hội do cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đem tới để thực hiện khát vọng phát triển đất nước nhanh, bền vững.
Với nền tảng công nghệ có sự thay đổi nhanh chóng theo hướng tích cực, với khát vọng vươn lên, sự phát triển kinh tế tại các doanh nghiệp Việt Nam đang ở thời kỳ rất sôi động. Kỳ vọng sự chuyển mình kịp thời của các doanh nghiệp trong chuyển đối số và kinh tế số sẽ tạo ra thế và lực mới, đóng góp vào sự phát triển bền vững của đất nước.