
1. Thực trạng về thoát nước và xử lý nước thải tại Hà Nội
Hiện nay trên phạm vi toàn thành phố, mạng lưới thoát nước phần lớn mạng chung hoặc nửa riêng, đã có một số nhà máy xử lý nước thải (XLNT) với các quy mô khác nhau được xây dựng; tại một số khu đô thị mới đã xây dựng hệ thống thoát nước riêng và trạm XLNT cục bộ hiện đại và khá đồng bộ.
1.1. Tổng lượng nước thải và nhà máy/trạm xử lý
a) Về nước thải sinh hoạt
Tại khu vực đô thị của thành phố, tổng lượng nước thải sinh hoạt phát sinh ước tính khoảng 1.100.000 m3/ngày, phần lớn nước thải của thành phố đã được xử lý sơ bộ qua bể tự hoại trước khi xả vào hệ thống cống thoát nước đô thị và đổ trực tiếp ra các kênh mương, hồ và các con sông thoát nước chính như sông Kim Ngưu, sông Sét, sông Tô Lịch, sông Lừ, sông Nhuệ...

Trên địa bàn thành phố có 08 nhà máy/trạm XLNT sinh hoạt tập trung đang vận hành với tổng công suất gần: 584.000 m3/ngđ (Kim Liên- 3700 m3/ ngđ; Trúc Bạch- 2300 m3/ngđ; Bảy Mẫu- 13.300 m3/ngđ; Yên Sở- 200.000 m3/ngđ; Hồ Tây- 15000 m3/ngđ; Bắc Thăng Long- Vân Trì- 42.000 m3/ngđ; Khu đô thị Gia Lâm- 38.000 m3/ngđ, nhà máy Yên Xá- 270.000m3/ngđ đang vận hành thử.
Tại một số khu đô thị mới cũng có một số trạm XLNT quy mô vừa và nhỏ đang hoạt động ví dụ Trạm XLNT trong khu đô thị SMART City có công suất khoảng 17.000 m3/ngđ, Royal City; 4500 m3/ngđ, Time City: 2700-3000 m3/ngđ (khu đô thị Ecopark gần Hà Nội cũng đã có 4 Trạm XLNT tổng công suất khoảng 28.500 m3/ngđ.)

Ngoài ra có 7 nhà máy XLNT sinh hoạt tập trung đã có chủ trương đầu tư xây dựng nhưng chưa triển khai hoặc xây dựng chậm tiến độ: Sơn Tây- 40.500 m3/ngđ; Tây sông Nhuệ- 58.000 m3/ngđ; Phú Lương (Hà Đông)- 76.000 m3/ngđ; Phú Đô-84.000 m3/ngđ; Ngọc Thuỵ- 26500 m3/ngđ; Phúc Đồng- 31500 m3/ngđ; An Lạc- 36000 m3/ngđ. Về lý thuyết nước thải sinh hoạt được xử lý khoảng 60% so với tổng lượng nước thải sinh hoạt phát sinh và như vậy vẫn còn khoảng 40% nước thải xả thẳng ra nguồn tiếp nhận
b) Về nước thải công nghiệp:
Đối với nước thải công nghiệp, làng nghề, tổng lượng nước thải phát sinh khoảng 75.000 m3/ngày đêm. Tuy nhiên hiện mới có 41/70 khu/cụm công nghiệp có trạm xử lý nước thải, trong đó có nhà máy XLNT có quy mô khá lớn trên 20.000m3/ngđ (Nhà máy XLNT Cầu Ngà), một số trạm XLNT không hoạt động hoặc hoạt động không hiệu quả do chưa xây dựng hoàn chỉnh mạng lưới thu gom và các công trình xử lý.

c) Về nước thải y tế
Tổng lượng nước thải phát sinh trên địa bàn thành phố ước tính khoảng 10.442 m3/ngày đêm, trong đó có 4.372 m3/ngày đêm từ các cơ sở y tế thuộc thành phố quản lý; 6.070 m3/ngày đêm từ các cơ sở y tế trung ương và bộ, ngành; trung bình là khoảng 0,4-0,6 m3/giường bệnh/ngày, các phòng khám tư nhân không quá 5m3/cơ sở/ngày.
Nước thải hầu hết được xử lý tại chỗ, trong bản thân cơ sở y tế. Tuy nhiên, đối với hầu hết các cơ sở y tế có lưu lượng nước thải nhỏ (<1-2 m3/ngày đêm việc XLNT theo mô hình tại chỗ sẽ tốn kém chi phí trong quá trình đầu tư, vận hành hệ thống xử lý hơn so với việc tiến hành xử lý theo cụm hoặc tập trung (theo tính toán của ngành y tế, có thể tiết kiệm chi phí gần 50%).
Hiện có 21/25 bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế; 26/28 bệnh viện cấp thành phố; 07/21 bệnh viện trực thuộc các bộ-ngành, 13/13 bệnh viện cấp huyện, 35/35 bệnh viện tư nhân đã có hệ thống XLNT tập trung (14/21 bệnh viện trực thuộc các bộ, ngành chưa có số liệu điều tra).
Tuy nhiên hệ thống XLNT tại một số bệnh viện đã xuống cấp (Bệnh viện: Hữu nghị Việt Đức; Phụ sản TW; Hà Đông; Sơn Tây; Bắc Thăng Long) hoặc quá tải (Nhi TW), hoạt động không hiệu quả (Xanh Pôn, Đan Phượng)…
1.2. Về mạng lưới cống thoát nước và đấu nối
Ngoài mạng lưới cống thoát nước cũ được xây dựng vào thế kỷ trước, phần lớn mạng lưới cống được xây dựng theo các dự án ODA (chủ yếu cho cống bao, trạm bơm hoặc nhà máy xử lý) chính quyền thành phố chịu trách nhiệm xây dựng đường ống cấp 2,3 và hộp đấu nối. Nhiều tuyến cống được xây dựng và bổ sung thì chắp vá, có tổng chiều dài ngắn hơn nhiều so với chiều dài đường phố, ngõ xóm.
Theo Sở Xây dựng Hà Nội, 12 quận nội thành, có hệ thống thoát nước gồm hơn 3.100 đường rãnh, 220km mương sông, kênh; 38.100 ga thu; 64.000 ga thăm; 50 hồ điều hòa. Nội thành có 57 trạm bơm trong đó có 10 trạm bơm thoát nước mưa chính như Yên Sở, Bắc Thanh Long, Đồng Bông, Cổ Nhuế, Cầu Bươu...
Nhiều đường cống thoát nước xuống cấp, hư hỏng, một số sông, mương hở vẫn đang trở thành đường thu gom nước thải gây ô nhiễm môi trường. Tỷ lệ đấu nối và chất lượng đấu nối vào mạng lưới thoát nước thấp.

1.3. Về quản lý vận hành
Thực hiện phân cấp theo Quyết định 14/2021/QĐ ngày 6/9/2021, công tác quản lý, vận hành, duy trì hệ thống thoát nước đô thị và XLNT trên địa bàn thành phố được tiến hành theo hình thức đấu thầu gồm 14 gói thầu giai đoạn 2019-2024, trong đó 9 gói duy trì thoát nước và 5 gói quản lý vận hành XLNT.
1.4. Một số thách thức chủ yếu
Sự phát triển kinh tế, xã hội; tốc độ đô thị hóa nhanh tăng sức ép lên cơ sở hạ tầng kỹ thuật đặc biệt trong lĩnh vực thoát nước đô thị.
Dân số thành phố ngày càng tăng nhanh với lượng người dân từ các nơi đổ về làm ăn và định cư gia tăng từng ngày. Điều đó đồng nghĩa với lượng nước thải sinh hoạt ngày càng tăng và nguy hại hơn. Sự gia tăng về dân số này là một thách thức lớn đối với các nhà máy XLNT.
Biến đổi khí hậu bất thường bao gồm cả tăng cường mưa lớn (cả về số trận cường độ mưa, thời gian mưa và mở rộng phạm vi) và lũ lụt cũng đã gia tăng áp lực lên hệ thống thoát nước đô thị.
Nhiều nhà máy XLNT đang hoạt động với điều kiện cơ sở hạ tầng hạn chế, công nghệ cũ, mạng lưới đường cống xuống cấp …. Những thách thức về cơ sở hạ tầng này có thể làm giảm hiệu xuất xử lý, tăng chi phí vận hành và bảo trì.
Ngân sách đầu tư rất hạn chế; nhiều cấp chính quyền chưa thực sự quan tâm đầu tư cho hệ thống thoát nước theo quy hoạch và kế hoạch.
Cơ chế, chính sách chưa đủ hấp dẫn để thu hút các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng hệ thống thoát nước và xử lý nước thải.
Nhận thức chưa đầy đủ về vai trò và tầm quan trọng của thoát nước đô thị,
Sự tham gia của cộng đồng dân cư trong quản lý hệ thống thoát nước thải còn hạn chế đặc biệt trong việc đấu nối hệ thống xử lý nước thải, điều này không chỉ ảnh hưởng đến môi trường mà còn làm giảm hiệu quả đầu tư của các nhà máy xử lý.
2. Khái quát về quy hoạch thu gom và XLNT
Trong Điều chỉnh quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội đến năm 2045 tầm nhìn đến 2065, Quy hoạch thoát nước và hệ thống thoát nước là một nội dung của điều chỉnh Quy hoạch này. Khái quát nội dung Quy hoạch như sau:
2.1. Dự báo tổng lượng nước thải
Dự báo lượng nước thải sinh hoạt phát sinh đến năm 2030 và 2045 lần lượt khoảng: 2.100.000 m3/ngđ và 2.500.000 m3/ngđ (đã bao gồm lượng nước thải công cộng 15%Qsh).
Dự báo lượng nước thải phát sinh từ các khu công nghiệp đến năm 2030 và 2045 lần lượt khoảng: 83.500 m3/ngđ và 101.300 m3/ngđ.
Dự báo lượng nước thải phát sinh từ các cụm công nghiệp đến năm 2030 và 2045 lần lượt khoảng: 93.200 m3/ngđ và 113.700 m3/ngđ.
2.2. Nguyên tắc lựa chọn hệ thống:
Khu vực có mật độ dân số cao, địa hình thuận lợi: xử lý nước thải tập trung quy mô lớn.
Khu vực có mật độ dân số trung bình, địa hình bị chia cắt hoặc phát triển nằm tách biệt: Xử lý nước thải tập trung quy mô nhỏ và vừa.
Khu vực có mật độ dân số thấp: Xử lý triệt để trong công trình và cụm công trình, trước khi xả ra hệ thống cống thoát nước chung.
Phân đợt xây dựng nhà máy XLNT giai đoạn trước mắt và lâu dài cho thành phố nhằm đảm bảo quy chuẩn môi trường, phù hợp với định hướng của QHC 2023.
Nước thải công nghiệp, làng nghề, y tế: xây dựng hệ thống thu gom, XLNT riêng, đảm bảo điều kiện vệ sinh môi trường trước khi thoát vào hệ thống thoát nước của khu vực.
2.3. Định hướng quy hoạch
Khu vực trung tâm phía Nam sông Hồng (thuộc lưu vực Tô Lịch và một phần lưu vực Tả Nhuệ): sẽ phát triển hệ thống thoát nước hỗn hợp trên cơ sở mạng lưới thoát nước chung đã có.
Mạng lưới thu gom thoát nước thải chính (cống bao tách nước thải) được bổ sung, bố trí dọc các tuyến sông, kênh, mương (đặc biệt các sông nội đô như sông Sét, Lừ, Kim Ngưu, Tô Lịch) và hồ điều hòa để phù hợp với hiện trạng thoát nước của thành phố, không để tình trạng nước thải chảy trực tiếp ra sông, hệ thống kênh mương hở, đảm bảo yêu cầu vệ sinh môi trường và thuận lợi trong việc phân kì đầu tư xây dựng hệ thống thu gom và nhà máy XLNT.
Khu vực phía Nam sông Hồng (thuộc khu vực hữu Nhuệ đến sông Đáy và một phần lưu vực Tả Nhuệ còn lại), khu vực trung tâm phía Bắc sông Hồng và khu vực các đô thị vệ tinh sẽ từng bước xây dựng hoàn thiện hệ thống thoát nước riêng. Trên cơ sở cải tạo hệ thống thu gom nước thải đối với các khu đô thị cũ xen lẫn, hướng tới phát triển mạng lưới thu gom nước thải riêng.

Khu vực nông thôn: Các khu vực nông thôn liền kề đô thị sẽ được thu gom cùng hệ thống thoát nước đô thị hoặc được thu gom và bơm chuyển tiếp đưa về khu vực XLNT tập trung. Các khu vực nông thôn khác sẽ được nghiên cứu XLNT phân tán tại chỗ.
* Giải pháp chi tiết cho các lưu vực trong phạm vi toàn thành phố như sau:
(1) Đô thị trung tâm phía Nam sông Hồng (Lưu vực Tô Lịch và một phần lưu vực Tả Nhuệ): gồm 07 nhà máy XLNT.
(2) Đô thị trung tâm phía Nam sông Hồng (khu vực từ Hữu Nhuệ đến sông Đáy và một phần lưu vực Tả Nhuệ còn lại): gồm 14 nhà máyXLNT.
(3) Đô thị trung tâm phía Bắc sông Hồng: gồm 29 nhà máy XLNT.
(4) Các đô thị vệ tinh: gồm 17 nhà máy XLNT.
(5) Khu vực các thị trấn cấp huyện: gồm 17 nhà máy XLNT.
Như vậy toàn thành phố dự kiến quy hoạch thành 70 lưu vực chính và 84 nhà máy XLNT sinh hoạt đầu mối với tổng công suất đến năm 2030 khoảng 2.000.000 - 2.200.000m3/ngđ và 2045 khoảng 2.300.000 - 2.500.000 m3/ngđ.
3. Một số đề xuất để nâng cao hiệu quả quản lý thoát nước
Để thực hiện công tác quản lý thoát nước có hiệu quả có môi trường trong sạch không ô nhiễm góp phần xây dựng thủ đô phát triển bền vững, tác giả đưa ra một số đề xuất:
1. Sau khi Quy hoạch được phê duyệt cần phải lập ngay kế hoạch triển khai thực hiện đồng thời nâng cao hiệu lực pháp lý thi hành của bản kế hoạch này cũng như gắn trách nhiệm tổ chức, cá nhân thực hiện. Trong kế hoạch cần phải chỉ rõ các dự án ưu tiên, tổng mức đầu tư, nguồn vốn, thời gian thực hiện, trách nhiệm tổ chức thực hiện.
2. Lĩnh vực thoát nước và XLNT là dịch vụ công ích do đó cần phải coi trọng đầu tư xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp hệ thống thoát nước thải là nhiệm vụ chính của các cấp chính quyền thành phố. Hàng năm thành phố phải dành đúng, đủ vốn theo kế hoạch đã duyệt để đầu tư vào các dự án đã được xác định.
3. Tiếp tục đầu tư xây dựng hệ thống thoát nước mưa riêng và hệ thống cống gom tất cả nước thải riêng theo quy hoạch, kế hoạch.
4. Song song với việc hoàn thiện cơ chế đấu thầu nghiên cứu thí điểm áp dụng hình thức hợp đồng quản lý vận hành dựa vào hiệu quả trong đó quy định mức độ thực hiện đối với công tác quản lý vận hành (ví dụ chất lượng nước đã qua xử lý …) mà đơn vị thoát nước phải đáp ứng trong thời hạn hợp đồng
5. Ban hành giá dịch vụ thoát nước, tổ chức thu tiền dịch vụ thu gom và XLNT theo lộ trình nhằm tăng nguồn thu bổ sung vào nguồn ngân sách cho công tác quản lý vận hành hệ thống thoát nước của thành phố.
6. Để quản lý có hiệu quả hệ thống thoát nước, việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu thoát nước là rất cần thiết; Hệ thống cơ sở dữ liệu cho phép cả chủ sở hữu và đơn vị thoát nước có đầy đủ thông tin chung về hệ thống cấp nước. Mặt khác hệ thống tiếp tục, cập nhật, bổ sung và hoàn thiện sẽ đóng vai trò như Sổ cái tài sản cố định, là cơ sở để tính toán chính xác các chi phí khấu hao... Từ đó tính toán giá dịch vụ thoát nước phù hợp, là cơ sở/công cụ góp phần vào công việc chuyển đổi số hiệu quả.
7. Huy động người dân tham gia đóng góp vào việc xây dựng, quản lý hệ thống thoát nước bao gồm: Không xả rác thải vào mạng lưới thoát nước; tích cực đấu nối vào mạng lưới để tăng lượng nước thải phục vụ xử lý; trả tiền dịch vụ thoát nước; bảo vệ hệ thống thoát nước…
8. Tiếp tục nâng cao đào tạo, bồi dưỡng năng lực cho chính quyền trung ương, địa phương, doanh nghiệp và cả cho người dân có liên quan đến quản lý thoát nước.
Kết luận: Thoát nước và XLNT là vấn đề cấp bách cần được quan tâm giải quyết. Để làm được công việc này đòi hỏi sự quyết tâm chính trị của chính quyền các cấp; sự tham gia của công động dân cư; huy động các nguồn lực đầu tư đống bộ hệ thống thoát nước. Hy vọng trong thời gian tới chất lượng môi trường của TP Hà Nội được cải thiện trong đó có góp phần của hệ thống thoát nước được cải thiện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Báo cáo Quy hoạch TP Hà Nội giai đoạn đến 2030 tầm nhìn đến năm 2050.
[2]. Báo cáo Điều chỉnh quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội đến năm 2045 tầm nhìn đến 2065.
[3]. Bộ Xây dựng, JICA (2021); “Quản lý thoát nước, Xử lý nước thải tại Việt Nam và kinh nghiệm của Nhật Bản”. NXB Xây dựng.
[4]. Ngân hàng thế giới (2019) “ Việt Nam: Hướng tới một hệ thống nước có tính thích ứng, sạch và an toàn”.
[5]. Một số thông tin, tư liệu, ảnh sưu tầm trên mạng.