Thúc đẩy chương trình hành động 876 để đạt hiệu quả thực chất

00:03 29/06/2025
Khi Việt Nam chính thức cam kết đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 tại Hội nghị COP26, đó không chỉ là một tuyên ngôn chính trị mà còn là khởi đầu cho một hành trình chuyển đổi toàn diện, sâu rộng và chưa từng có tiền lệ trong nhiều lĩnh vực.

Trong đó, lĩnh vực GTVT trở thành một trong những mũi nhọn cần chuyển đổi gấp rút và quyết liệt. Trong bối cảnh đó, ngày 22/7/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 876/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình hành động về chuyển đổi năng lượng xanh, giảm phát thải khí các-bon và khí mê-tan trong lĩnh vực GTVT.

Chương trình đã thu hút sự quan tâm, vào cuộc của nhiều bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp và các tổ chức quốc tế. Tuy nhiên, để chương trình không chỉ nằm trên giấy tờ, không chỉ dừng lại ở định hướng mà thật sự đi vào thực tiễn, trở thành động lực thúc đẩy phát triển bền vững lĩnh vực GTVT cần có cái nhìn thẳng thắn vào những thách thức, cùng một hệ giải pháp đủ mạnh, đủ đồng bộ và đủ tầm chiến lược.

Cần "cú hích" để các phương tiện xanh phát triển và phủ khắp mạng lưới giao thông.

Quá trình tái cấu trúc toàn diện

Chuyển đổi năng lượng xanh không phải là cuộc cải tiến nhỏ lẻ trong lựa chọn nhiên liệu hay phương tiện. Đó là một quá trình tái cấu trúc sâu rộng toàn lĩnh vực GTVT, từ công nghệ vận tải, cơ sở hạ tầng, phương thức vận hành đến khung chính sách, mô hình tài chính và cả nhận thức xã hội.

Điểm xuất phát của Việt Nam trong hành trình chuyển đổi này còn nhiều bất cập. Trước hết là tỷ trọng phương tiện sử dụng nhiên liệu hóa thạch chiếm áp đảo. Phần lớn phương tiện đường bộ (chiếm hơn 90% lưu lượng vận tải hàng hóa và hành khách) vẫn chủ yếu sử dụng xăng, dầu diesel. Các phương tiện đường thủy nội địa, đường sắt hay hàng không chưa có sự cải thiện rõ rệt về công nghệ động cơ, mức độ tiêu hao năng lượng hay chuyển đổi nhiên liệu. Trong khi đó, hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ cho các phương tiện chạy điện, chạy khí sạch hay tích hợp năng lượng tái tạo vẫn chưa phát triển, thậm chí còn rất manh mún.

Phần lớn phương tiện đường bộ nước ta vẫn chủ yếu sử dụng xăng, dầu diesel, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

Hơn nữa, không thể không nhắc tới bài toán tài chính - rào cản lớn nhất trong mọi hành động. Dù Việt Nam đã xây dựng khung chính sách hỗ trợ tín dụng xanh, nhưng thực tế cho thấy các doanh nghiệp giao thông vẫn chưa tiếp cận được nguồn vốn này một cách hiệu quả. Cơ chế giá các-bon, hệ thống đo đạc - kiểm kê - báo cáo phát thải (MRV), công cụ định lượng hiệu quả giảm phát thải trong các dự án đầu tư giao thông… vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm hoặc chưa có hành lang pháp lý đầy đủ.

Cuối cùng, tâm lý "chờ đợi, thăm dò" vẫn hiện diện khá rõ trong cách tiếp cận của nhiều địa phương, đơn vị vận tải và cả cơ quan quản lý. Khi thiếu sự bắt buộc, thiếu ưu đãi rõ ràng và thiếu sức ép từ thị trường thì động lực để chuyển đổi xanh rất dễ bị xói mòn trong vòng xoáy của những mục tiêu tăng trưởng ngắn hạn.

Quyết định 876/QĐ-TTg là một văn bản chiến lược đúng hướng, thể hiện rõ tầm nhìn dài hạn của Chính phủ. Tuy nhiên, hiệu quả cuối cùng không nằm ở nội dung của văn bản mà phụ thuộc vào cách triển khai cụ thể, sự phối hợp liên ngành và khả năng gắn kết giữa chủ trương và hành động.

Một trong những điểm mấu chốt để chương trình hành động phát huy hiệu quả là xây dựng được cơ chế phối hợp mạnh mẽ giữa các bộ, ngành liên quan, đặc biệt là giữa Bộ Xây dựng, Bộ NN&MT, Bộ Công thương và Bộ Tài chính. GTVT không thể chuyển đổi xanh nếu thiếu nguồn cung năng lượng sạch, cũng không thể giảm phát thải nếu thiếu công cụ đo lường và giám sát minh bạch. Hơn thế, đầu tư vào phương tiện vận tải xanh sẽ không xảy ra nếu không có ưu đãi tài khóa và tín dụng thực chất.

Thực tế hiện nay cho thấy, việc xây dựng lộ trình chuyển đổi còn dàn trải, thiếu tính thứ tự ưu tiên theo vùng miền, phương thức vận tải hoặc nhóm doanh nghiệp. Việc ứng dụng công nghệ số trong quản lý dữ liệu phát thải còn rời rạc. Các địa phương thiếu định hướng cụ thể để lồng ghép mục tiêu chuyển đổi xanh vào quy hoạch giao thông đô thị, phát triển logistics hay hạ tầng vận tải liên vùng. Chính điều này làm giảm hiệu ứng lan tỏa của chương trình hành động.

Thay đổi cách nhìn và cách làm

Một sai lầm phổ biến là cho rằng chuyển đổi xanh chỉ là trách nhiệm môi trường, là chi phí phải trả để đổi lấy hình ảnh quốc gia “sạch hơn”. Thực ra, nếu được tổ chức đúng cách, đầu tư cho giao thông xanh hoàn toàn có thể mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội vượt trội trong trung và dài hạn.

Đầu tư cho giao thông xanh hoàn toàn có thể mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội vượt trội. Ảnh minh họa

Nhiều nghiên cứu cho thấy, các phương tiện vận tải điện có chi phí vận hành thấp hơn khoảng 30 - 40% so với phương tiện chạy nhiên liệu hóa thạch. Hệ thống giao thông tích hợp điện khí hóa và điều phối thông minh có thể làm giảm đáng kể tình trạng ùn tắc, tiết kiệm hàng tỷ đồng mỗi năm cho người dân và doanh nghiệp. Việc phát triển các tuyến đường sắt liên vùng, tăng cường vận tải thủy nội địa cũng góp phần giảm áp lực lên đường bộ, đồng thời cắt giảm chi phí logistics vốn đang cao hơn 2 - 3 lần so với các nước trong khu vực.

Đặc biệt, thị trường tài chính quốc tế đang dịch chuyển mạnh mẽ sang ưu tiên các dự án phát triển bền vững. Nếu có chiến lược rõ ràng và lộ trình minh bạch, lĩnh vực GTVT Việt Nam hoàn toàn có thể tiếp cận các nguồn vốn xanh từ Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Khí hậu xanh (GCF), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) hay các định chế tài chính tư nhân đang tìm kiếm cơ hội đầu tư vào các thị trường mới nổi.

Nói cách khác, hành động vì khí hậu là hành động vì chính lợi ích của nền kinh tế quốc dân nếu chúng ta thay đổi cách nhìn và cách làm.

Đổi mới thể chế, xã hội hóa đầu tư

Để chương trình hành động không trở thành một bản kế hoạch “nằm im trong ngăn kéo” trước hết cần đột phá về thể chế. Phải sớm xây dựng pháp luật giao thông xanh, tạo hành lang pháp lý cho các loại hình vận tải sử dụng năng lượng tái tạo, quy định rõ cơ chế định giá các-bon, cơ chế bù đắp phát thải cũng như tiêu chuẩn khí thải bắt buộc cho từng loại phương tiện.

Song song đó, truyền thông phải đi trước một bước. Chỉ khi người dân, doanh nghiệp và chính quyền địa phương hiểu được lợi ích thật sự của chuyển đổi xanh thì họ mới sẵn sàng tham gia. Những chiến dịch truyền thông công cộng về xe điện, phương tiện sử dụng khí sạch, logistics xanh hay vai trò của hành vi tiêu dùng trong giảm phát thải cần được triển khai rộng rãi và sáng tạo hơn.

Cảng biển Việt Nam đang được "xanh hóa", sử dụng công nghệ và phương tiện tiết kiệm năng lượng.

Cuối cùng, không thể thiếu vai trò của khu vực tư nhân và xã hội hóa đầu tư. Nhà nước không thể và không nên tự mình gánh vác toàn bộ chi phí chuyển đổi. Cần thúc đẩy các mô hình đầu tư công - tư (PPP); khuyến khích các tập đoàn logistics, doanh nghiệp vận tải lớn tham gia vào thị trường tín chỉ các-bon, phát hành trái phiếu xanh, đổi mới phương tiện và đầu tư vào công nghệ tiết kiệm năng lượng.

Quyết định 876/QĐ-TTg là một định hướng quan trọng, mang tính đột phá trong tiến trình xanh hóa lĩnh vực GTVT. Nhưng từ “chủ trương lớn” đến “hành động cụ thể” là một khoảng cách cần được rút ngắn bằng sự đồng lòng, bằng cơ chế vận hành hiệu quả và bằng tầm nhìn hành động dài hạn.

Chuyển đổi năng lượng xanh, giảm phát thải khí các-bon và khí mê-tan không phải là sự lựa chọn mà là con đường tất yếu. Câu hỏi không phải là “có làm hay không”, mà là “làm như thế nào để hiệu quả nhất”. Đó là trách nhiệm không chỉ của một ngành, một lĩnh vực mà là bài toán phát triển của cả quốc gia trong kỷ nguyên xanh - một kỷ nguyên mà tăng trưởng sẽ không còn được đánh giá bằng tốc độ mà bằng sự bền vững.

 

Bình luận