![]()
http://doi.org/10.64588/jc.04.09.2025
Tóm tắt
Bài báo này nghiên cứu thực trạng về chuỗi cung ứng ngành thủy sản vùng ĐBSCL trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0. Hạn chế - nguyên nhân. Dựa trên những xu hướng phát triển của cách mạng công nghiệp 4.0, các định hướng phát triển vùng ĐBSCL, phát triển chuỗi cung ứng ngành thủy sản của Đảng và Nhà nước và các yêu cầu thực tiễn phát triển vùng ĐBSCL.
Nghiên cứu sẽ đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển chuỗi cung ứng ngành thủy sản vùng ĐBSCL trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0.
Từ khóa: Chuỗi cung ứng, ngành thủy sản, ĐBSCL, cách mạng công nghiệp 4.0.
Abstract
The present study investigates the current status of the fisheries supply chain in the Mekong Delta within the framework of the Fourth Industrial Revolution (Industry 4.0), with particular attention to its limitations and underlying causes. Based on the development trends of Industry 4.0, the strategic orientations for the Mekong Delta, the Party and State’s policies on fisheries supply chain development, and the practical imperatives of regional growth, this research formulates solutions and policy recommendations to foster the advancement of the fisheries supply chain in the Mekong delta in the era of Industry 4.0.
Keywords: Supply chain, fisheries sector, Mekong delta, Industry 4.0.
1. Đặt vấn đề
Hiện nay, chúng ta đang ở trong giai đoạn đầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0). Khi các tiến bộ của KHCN trong lĩnh vực sản xuất có một sự thay đổi mang tính đột biến, triệt để, làm thay đổi cơ bản các điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa, kĩ thuật. Cuộc cách mạng này được đặc trưng bởi Internet ngày càng phổ biến, bởi các cảm biến nhỏ và mạnh hơn với giá thành rẻ hơn, bởi trí tuệ nhân tạo. Các công nghệ số với phần cứng máy tính, phần mềm và hệ thống mạng đang trở nên ngày càng phức tạp hơn, được tích hợp nhiều hơn và vì vậy đang làm biến đổi xã hội và nền kinh tế toàn cầu.
Dựa trên những xu hướng phát triển của cách mạng công nghiệp 4.0, các định hướng phát triển vùng ĐBSCL, phát triển chuỗi cung ứng ngành thủy sản của Đảng và Nhà nước và các yêu cầu thực tiễn phát triển vùng ĐBSCL cho thấy rằng việc nghiên cứu phát triển chuỗi cung ứng ngành thủy sản vùng ĐBSCL trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 có ý nghĩa cấp thiết về lý luận và thực tiễn.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Thực trạng các nhân tố tác động chuỗi cung ứng ngành thủy sản vùng ĐBSCL trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0
Nguồn nhân lực:
Với 6 tỉnh, thành phố, dân số khoảng 18 triệu người và lực lượng lao động chiếm 21,44% tổng số lực lượng lao động cả nước, song điều lo ngại và băn khoăn hiện nay ở ĐBSCL là chất lượng nguồn nhân lực trong toàn vùng còn thấp. Tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo chiếm 83,25%, trong khi đó tỷ lệ chung cả nước 74,6% và ÐBSCL xếp thứ bảy trong số tám vùng, miền. Ðiều tra mới đây còn cho thấy, hiện chỉ có gần 20% số lao động công nghiệp vùng ÐBSCL có trình độ chuyên môn hóa và tay nghề cao; khoảng 17% số lao động có tay nghề kỹ thuật đang trực tiếp sản xuất. Cơ cấu lao động bất hợp lý, nhất là tỷ lệ giữa thầy và thợ quá chênh lệch.
Năng suất lao động của vùng ĐBSCL trong giai đoạn 2018 - 2022 đã có sự tăng đáng kể (+29%), tuy nhiên vẫn thấp so với cả nước (+31%). Riêng khu vực nông lâm thủy sản lại có mức tăng trưởng năng suất lao động nông nghiệp của vùng ĐBSCL thấp hơn hẳn so với cả nước. Cụ thể là giai đoạn 2018 - 2022, trong khi năng suất lao động ngành nông, lâm thủy sản của cả nước tăng 139% (13,4%/năm) thì tỷ lệ tương ứng vùng ĐBSCL chỉ đạt 22% (5%/năm). Lao động khu vực nông lâm thủy sản của vùng ĐBSCL trong giai đoạn 2018 - 2022 đã giảm 8% đã cho thấy ngành nông nghiệp đã dần chuyển sang cơ giới hóa và giảm thâm dụng lao động.
Khoa học công nghệ:
Trong vài năm trở lại đây, nhiều tỉnh ĐBSCL đã ứng dụng công nghệ kỹ thuật số để thu thập dữ liệu và cung cấp thông tin cho người dân về xâm ngập mặn, thủy triều, giá cả thị trường… Sự phát triển và ứng dụng của công nghệ đám mây đã tạo ra mô hình nông nghiệp thông minh (SA) và được ứng dụng đa dạng trong sản xuất nông nghiệp nói chung và ngành thủy sản nói riêng. Kết nối IoT, sử dụng hệ thống cảm biến quan trắc môi trường nước như hệ thống “RYAN®Mekong” với 60 điểm ở các tỉnh (Vĩnh Long, Đồng Tháp, An Giang, Cần Thơ, Cà Mau), dữ liệu được cập nhật 15 phút/lần lên internet và mọi người có thể truy cập xem băng điện thoại thông minh.
Cơ chế chính sách:
Ngành thủy sản ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và ngành này mang lại thu nhập chính cho nhiều nông hộ vùng nông thôn. Theo Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 11/3/2021 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã nêu rõ chiến lược phát triển ngành thủy sản là xây dựng thủy sản thành ngành kinh tế có quy mô và tỷ suất hàng hóa lớn, có thương hiệu uy tín, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu, có khả năng cạnh tranh cao và bền vững.
Cụ thể, Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 11/3/2021 của Thủ tướng Chính phủ đã định hướng ngành thủy sản vùng ĐBSCL theo hướng hiện đại hóa, đầu tư KHCN, nâng cấp đội tàu khai thác, phát triển khai thác vùng khơi hiệu quả. Phát triển dịch vụ nuôi trồng hải sản trên biển, du lịch sinh thái biển.
Sự phối hợp chính sách giữa các bộ ngành trung ương và vùng ĐBSCL được nêu trong Quyết định số 593/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Ban hành Quy chế thí điểm liên kết phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL giai đoạn 2016 - 2020 và Nghị quyết số 120/NQ - CP của Chính phủ về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu.
Các chính sách liên quan đến phát triển con giống thủy sản, quản lý con giống thủy sản: Quyết định số 103/2000/QĐ-TTg ngày 25/8/2000 và Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 11/3/2021 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Bên cạnh những chính sách hỗ trợ khuyến khích phát triển, Chính phủ đã nỗ lực đàm phán để ý kết các hiệp định thương mại tự do với các nước cũng như đàm phán về thuế chống bán phá giá như sau: Việt Nam đã ký kết Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do với Liên minh châu Âu (EVFTA) tạo cơ hội xuất khẩu cho hàng hóa của Việt Nam nói chung vào các nước thành viên. Thuế chống bán phá giá tôm của Việt Nam vào thị trường Mỹ giảm xuống còn dưới 1% là một thuận lợi cho tôm Việt Nam.
Logistics:
Với hệ thống sông ngòi dày đặc, khu vực có tiềm năng về phát triển vận tải đường thủy nhưng chưa được đầu tư khai thác đúng mức, nhưng năng lực vận chuyển còn thấp nên năng lực bốc dỡ hàng hóa thấp; nhiều bến cảng thiếu đường bộ kết nối. Một số nút thắt như tĩnh không cầu thấp (Măng Thít, Trà Ôn, Nàng Hai...), mật độ cao (kênh Chợ Gạo); cống đập thuỷ lợi ngăn cách ở các kênh mương nhỏ khiến hoạt động vận tải không thể thông suốt và ảnh hưởng đến hiệu quả chung của toàn hệ thống. Sự “manh mún” này khiến hiện nay các tàu lớn chỉ có thể di chuyển giữa khu vực TP Hồ Chí Minh và Cần Thơ thông qua sông Hậu, sông Tiền và Vàm Nao, với luồng tuyến đường thủy rất dài, khoảng 260 km.
Năng suất thấp là một phần vì một số điểm đứt đoạn của các tuyến vận tải hàng hóa trên các kênh chính dẫn đến TP Hồ Chí Minh. Mạng lưới đường thủy đòi hỏi phải đầu tư đồng bộ toàn tuyến cũng như hạ tầng cảng, bến, phương tiện (đặc biệt hạ tầng phục vụ vận tải container). Chỉ một số nút thắt như tĩnh không cầu (Mang Thít, Trà Ôn, Nàng Hai…), mật độ cao (kênh Chợ Gạo) cũng làm ảnh hưởng đến toàn hệ thống.
Sự hợp tác giữa các tổ chức:
Những năm gần đây, Chính phủ, các cơ quan trung ương và các tỉnh ĐBSCL đã có nhiều nỗ lực nhằm thúc đẩy liên kết vùng và tiểu vùng ở ĐBSCL. Liên kết vùng được thúc đẩy thông qua việc các cơ quan Chính phủ (trung ương, địa phương) thực hiện phối hợp liên tỉnh, liên ngành trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên (cơ chế liên kết từ sáng kiến của các cơ quan Chính phủ) và liên kết theo chuỗi sản phẩm tự hình thành theo nhu cầu của thị trường, có hoặc không có sự tham gia của các cơ quan nhà nước (cơ chế liên kết do nhu cầu của thị trường).
Một số công cụ liên kết vùng nói trên đã được áp dụng nhằm vừa giúp tăng cường liên kết giữa các tỉnh trong vùng ĐBSCL (liên kết nội vùng) vừa tăng cường liên kết giữa vùng ĐBSCL với các vùng khác trong nước (liên kết ngoại vùng), ví dụ như công cụ quy hoạch vùng, hay cơ chế liên kết vùng thí điểm theo Quyết định 593/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Công cụ được sử dụng nhằm tăng cường liên kết giữa một số tỉnh trong vùng ĐBSCL nội vùng, như các sáng kiến liên kết tiểu vùng. Để thấy rõ hơn những cơ hội và thách thức trong phát triển liên kết vùng ĐBSCL sẽ nhóm gộp các công cụ thành hai loại cơ chế liên kết vùng, bao gồm: (i) Liên kết do yêu cầu phối hợp trong quản lý nhà nước của các cơ quan chính phủ và (ii) Liên kết do nhu cầu của thị trường.
Liên kết do yêu cầu phối hợp trong quản lý nhà nước của các cơ quan chính phủ, lập quy hoạch vùng là một công cụ quản lý nhà nước được sử dụng nhằm đảm bảo có sự phối hợp liên tỉnh trong vùng và phối hợp giữa vùng ĐBSCL với các vùng khác trong nước và với quốc tế. Trên cơ sở đó đưa ra định hướng phát triển ngành cho các tỉnh trong vùng, các bộ, cơ quan quản lý ngành đã xây dựng quy hoạch ngành cho mỗi vùng, trong đó có quy hoạch ngành tại vùng ĐBSCL. Tuy nhiên, trước khi Luật Quy hoạch có hiệu lực, lập quy hoạch không bị bắt buộc phải theo cách tiếp cận tích hợp; vì vậy, các quy hoạch đã được xây dựng cho từng ngành riêng rẽ và song trùng với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Theo đó, đã có 22 bản quy hoạch ngành tại vùng cho giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn 2030.
2.2. Thành tựu, hạn chế và các vấn đề đặt ra cho phát triển chuỗi cung ứng ngành thủy sản vùng ĐBSCL trong bối cảnh cách mạng công nghệ 4.0
Thành tựu:
Vùng ĐBSCL có những lợi thế so sánh tập trung ở các ngành khai thác và nuôi trồng thủy sản, chế biến thực phẩm - lâm nghiệp, các hoạt động dịch vụ liên quan và sản xuất thuốc - hóa dược. Trong đó, NTTS, KTTS và chế biến thực phẩm thủy sản là các ngành có thế so sánh mạnh nhất cả nước.
Phân tích ma trận PEST:
- Thể chế, chính sách.
Bên cạnh những chính sách hỗ trợ khuyến khích phát triển, Chính phủ đã nỗ lực đàm phán để ý kết các hiệp định thương mại tự do với các nước cũng như đàm phán về thuế chống bán phá giá như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do với Liên minh châu Âu (EVFTA).
- Kinh tế:
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều hành chính sách tiền tệ theo hướng kiềm chế lạm phát nên lãi suất trên thị trường khá ổn định tạo điều kiện cho các tác nhân tham gia chuỗi giá trị ngành thủy sản, đặc biệt là nông dân và doanh nghiệp chế biến tiếp cận với nguồn vốn vay có lãi suất hợp lý để đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Văn hóa - xã hội:
Những quốc gia của thị trường xuất khẩu đã xây dựng những rào cản kỹ thuật rất khắt khe cho thực phẩm nhập khẩu nhằm bảo hộ sản xuất, bảo vệ người tiêu dùng. Điều này đặt ra cho ngành thủy sản Việt Nam là phải sản xuất theo những tiêu chuẩn chất lượng đáp ứng yêu cầu của từng thị trường xuất khẩu.
Công nghệ:
Tại Việt Nam, với sự hỗ trợ tư vấn tài chính của Tổ chức Phát triển Hà Lan (SNV), Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) Việt Nam, Qũy Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (WWF) Việt Nam, Chương trình thúc đẩy nhập khẩu của Thụy sĩ (SIPPO), Tổ chức Hợp tác Phát triển Đức (GIZ)… phối hợp với chính quyền địa phương đã để đẩy mạnh sự hỗ trợ các tác nhân trong chuỗi giá trị tôm, đặc biệt là nông hộ để đạt được những tiêu chuẩn chứng nhận quốc tế (Naturland, EurepGap, Biosusses, Selva shrimp...) có thị trường ổn định mang lại hiệu quả kinh tế, môi trường cho các địa phương.
2.3. Hạn chế và nguyên nhân
Từ phân tích các nhân tố tác động đến sự phát phát triển chuỗi cung ứng ngành thủy sản vùng ĐBSCL, mô hình pest rút ra những hạn chế và nguyên nhân như sau:
Khoa học công nghệ còn hạn chế trong việc ứng dụng các thành tựu CMCN 4.0 vào quá trình phát triển chuỗi cung ứng ngành thủy sản trong bối cảnh CMCN 4.0.
Nguồn nhân lực bị hạn chế về chất lượng và số lượng nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu lao động trong bối cảnh CMCN 4.0.
Sự hợp tác giữa các tổ chức làm hạn chế nang lực cạnh tranh ngành thủy sản. Sự cạnh tranh bị hạn chế do sự yếu kém trong xây dựng mối liên kết dọc giữa ác tác nhân tham gia chuỗi cung ứng, cũng như mối liên kết ngành giữa các thành viên trong cùng nhóm tác nhân.
Cơ sở hạ tầng giao thông và hệ thống logistics trong vùng chưa được đầu tư thích đáng và thiếu đồng bộ giữa các loại hình giao thông đã làm hạn chế sự cạnh tranh của ngành.
2.4. Các vấn đề đặt ra
Từ những hạn chế và nguyên nhân, để phát triển chuỗi cung ứng ngành thủy sản vùng ĐBSCL trong bối cảnh CMCN 4.0 cần phải giải quyết các vấn đề đặt ra như sau:
- Đối với KHCN cần có giải pháp khuyến khích áp dụng quy trình kỹ thuật và công nghệ cao vào sản xuất ở các khâu của chuỗi cung ứng và các giải pháp đẩy mạnh chuyển đổi số, thương mại điện tử.
- Đối với nguồn nhân lực, cần có giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của quá trình chuyển đổi số, CMCN 4.0 và giải pháp nâng cao trình độ kỹ thuật chuyên môn, năng lực quản lý cho lãnh đạo từ đó tăng cường liên kết ngành dọc trong chuỗi cung ứng.
- Đối với sự hợp tác giữa các tổ chức, cần có các giải pháp để quản lý và kiểm soát chặt chẽ tất cả các khâu trong chuỗi từ nhằm khắc phục các mối nguy cũng như giảm tối đa các rủi ro trong quá trình sản xuất nguyên liệu và chế biến tiêu thủy sản.
- Đối với cơ chế chính sách, xây dựng phát triển các chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp chế biến tham gia vào chuỗi cung ứng ngành thủy sản, xây dựng các chính sách khuyến khích phát triển con giống chất lượng cao,
- Đối với logistics, cần có giải pháp đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng kinh tế, các dịch vụ logistics phục vụ sản xuất, chế biến, phân phối và bảo quản sản phẩm. Cần có giải pháp đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ vào hoạt động logistics.
3. Kết luận
Nghiên cứu tập trung phân tích thực trạng chuỗi cung ứng ngành thủy sản vùng ĐBSCL trong bối cảnh CMCN 4.0, đồng thời chỉ ra những hạn chế, nguyên nhân và xây dựng cái nhìn tổng quan về đặc điểm của vùng. Tổng quan khu vực cho thấy ĐBSCL sở hữu nhiều lợi thế về điều kiện tự nhiên, văn hóa - xã hội, kinh tế và hạ tầng, qua đó khẳng định tiềm năng lớn trong phát triển thủy sản, song cũng bộc lộ không ít thách thức được thể hiện qua cả cơ hội, điểm mạnh lẫn những yếu tố bất lợi và điểm yếu cần khắc phục. Chính sách của Đảng và Nhà nước đã định hướng rõ ràng việc phát triển các sản phẩm chủ lực, trong đó thủy sản giữ vai trò then chốt, gắn liền với các chương trình liên kết vùng và quy hoạch kinh tế - xã hội. Hạ tầng giao thông từng bước được cải thiện, đặc biệt là hệ thống cao tốc và đường thủy nội địa, góp phần thúc đẩy logistics và tăng cường kết nối vùng. Phân tích các nhân tố tác động đến chuỗi cung ứng cho thấy nguồn nhân lực còn yếu về kỹ năng chuyển đổi số, khoa học - công nghệ chậm ứng dụng, mô hình sản xuất truyền thống vẫn phổ biến. Liên kết giữa các tác nhân trong chuỗi chưa bền vững, logistics thiếu đồng bộ và phụ thuộc nhiều vào các trung tâm ngoài vùng, trong khi cơ chế chính sách triển khai còn chậm so với định hướng. Dù vậy, ngành thủy sản vùng ĐBSCL đã đạt được nhiều thành tựu trong sản xuất và xuất khẩu, song vẫn tồn tại những hạn chế cần nhận diện rõ. Bài báo đã sử dụng mô hình PEST và SWOT để đánh giá năng lực cạnh tranh, cơ hội, thách thức, điểm mạnh và điểm yếu, từ đó làm rõ những nguyên nhân và vấn đề cốt lõi. Những vấn đề được đặt ra trong bài báo này không chỉ phản ánh thực trạng mà còn tạo tiền đề quan trọng, định hướng cho các nghiên cứu tiếp theo trong việc hoàn thiện và đề xuất giải pháp phù hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Vĩnh Long, 2023, “Báo cáo quy hoạch tỉnh Vĩnh Long thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
[2]. Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Đồng Tháp, 2023, “Báo cáo quy hoạch tỉnh Đồng Tháp thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050”.
[3]. Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh An Giang, 2022, “Báo cáo quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050”.
[4]. UBND Thành phố Cần Thơ, 2023 “Báo cáo quy hoạch Thành phố Cần Thơ thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050”.
[5]. UBND tỉnh Cà Mau, 2023, “Báo cáo quy hoạch Thành phố Cần Thơ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050”.
[6]. Tổng cục Thống kê, 2019, "Kết quả điều tra dân số và nhà ở năm 20019," NXB Thống kê.
[7]. Hiệp hội cá tra Việt Nam, "https://www.pangasiusmap.com/vi," [Online]. Available: https://www.pangasiusmap.com/vi/ban-do. [Accessed 16 05 2024].
[8]. Nguyễn Ngọc Trung, 2018, "Các nhân tố ảnh hưởng đến liên kết chuỗi cung ứng ngành thủy sản - Nghiên cứu tại tỉnh Bến tre" Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế quốc dân.

Dựa trên những xu hướng phát triển của cách mạng công nghiệp 4.0, các định hướng phát triển vùng ĐBSCL, phát triển chuỗi cung ứng ngành thủy sản của Đảng và Nhà nước và các yêu cầu thực tiễn phát triển vùng cho thấy việc nghiên cứu phát triển chuỗi cung ứng ngành thủy sản vùng ĐBSCL trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 có ý nghĩa cấp thiết về lý luận và thực tiễn. 

