Thủy điện Hòa Bình - hồi ức và khát vọng

Công trình Nhà máy thủy điện Hòa Bình xứng đáng là bản hùng ca của những “chàng Sơn Tinh” - người thợ Việt Nam - Liên Xô đã chinh phục thành công dòng sông Đà trong hành trình và khát vọng hướng tới tương lai.
Thủy điện Hòa Bình - hồi ức và khát vọng
Nhà máy thủy điện Hòa Bình

Thị xã Hòa Bình vào những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ trước vẫn là một vùng đất còn lạ lẫm với nhiều người. Thiên nhiên ở vùng đất nên thơ này có vẻ đẹp hoang dã, toát lên từ vẻ khởi nguyên sơ khai khắc nghiệt nào đấy. Những phiến thạch có hình thù lạ mắt nhô cao lên trời giống như những tượng đá khổng lồ được phủ bằng tấm thảm xanh thực vật.

Giữa khung cảnh ấy là con sông Đà bướng bỉnh tung sóng bạc đầu chảy về xuôi với nhiều thác lắm ghềnh và có tới gần 200 nhánh sông. Để chế ngự dòng sông, nước ta đã có kế hoạch nghiên cứu để chinh phục dòng sông, biến dòng nước sông Đà thành nguồn “năng lượng trắng”, đồng thời cung cấp lượng nước hữu ích - bảo đảm độ ẩm cho một vùng đồng bằng Bắc Bộ rộng lớn và hạn chế những “thảm họa” lũ lụt do nó gây ra.

Nói về việc chinh phục sông Đà, làm ta nhớ đến một huyền thoại được truyền từ đời này sang đời khác, truyện “Sơn Tinh, Thủy Tinh”. Huyền thoại ấy từng được nhiều người kể trong suốt quá trình xây dựng thủy điện sau này và nghĩ liệu chúng ta có thắng “Thủy Tinh” được không? Và để xây dựng thủy điện cần phải chế ngự được dòng sông, muốn vậy phải có những “chàng Sơn Tinh của thế kỷ 20”- những người công nhân xây dựng thủy điện bắt đầu một hành trình gian nan thử thách tài năng, trí tuệ của những công nhân xây dựng.

Vì thế, một “Công trường Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh” trên công trường Nhà máy Thủy điện Hòa Bình ra đời.

Lễ khởi công xây dựng thủy điện Hòa Bình đúng ngày 07/11/1979.

Thủy điện Hòa Bình - nơi thách thức trí tuệ và lòng can đảm của con người…

Để triển khai xây dựng, cả nước đã huy động hàng vạn đoàn viên thanh niên từ các vùng nông thôn miền Bắc xung phong làm việc tại công trường thủy điện - Công trường Thanh niên Cộng sản. Đã có hơn 500 kỹ sư và trung cấp kỹ thuật vừa tốt nghiệp, 800 chuyên gia là công trình sư, kỹ sư và hàng vạn công nhân lành nghề của Liên Xô được điều động đến công trường.

Giai đoạn quan trọng đầu tiên là ngăn sông Đà rất vất vả, tất cả các cán bộ, kỹ sư công nhân đều lao động với tinh thần cao nhất. Họ cùng ăn, cùng ở, cùng làm với chúng ta trong điều kiện hết sức khó khăn, khắc nghiệt. Ở đây, chỉ có một công trường, những mối quan tâm chung. Mùa Thu, ngày 06/10/1982 với khí thế sôi động của công trường, Nhà nước đã quyết định công nhận công trường là “Công trường Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh”.

Sau 4 năm thi công liên tục, đầu năm 1983 đã hoàn thành ngăn sông Đà đợt I, đó là ngày 12/01/1983. Tôi còn nhớ một phóng viên của báo “Sự Thật” - Mikhain Đômôgaxki đã ghi lại sự kiện ấy khi tới thăm cổng trường xây dựng Nhà máy thủy điện Hòa Bình, như sau: “Cuộc chiến đấu kiên cường với sông Đà kéo dài 50 giờ đồng hồ. Sau khi phá sập đê quai vạc, những chiếc xe tải khổng lồ “Bela” bắt đầu trút xuống dòng sông những khối bê tông nặng 5 và 7 tấn để ngăn dòng chảy con sông và buộc nó phải chảy theo một nhánh nhân tạo do bàn tay và kỹ thuật của công nhân xây dựng làm nên. Con sông không chịu yên. Nó nhấn chìm những khối bê tông, réo ầm ầm, sủi bọt trắng…” (Trích: “Điện Hòa Bình”- P.Bôgachencô).

Nhưng sức người vẫn mạnh hơn. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có mặt trong buổi lễ ngăn sông, chứng kiến sự kiện trọng đại này. Ông ra lệnh lấp sông và ngay lập tức xe ủi, xe Ben la 27 tấn từ điểm tập kết tiến ra. Dòng chảy hẹp đi trông thấy. Và cuối cùng con sông hiền hòa chảy theo con kênh bên bờ phải dòng sông, lấy chỗ để xây dựng con đập cao 128 m.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng ném hòn đá tượng trưng mở đầu đợt ngăn sông Đà đợt I/1983 (Ảnh tư liệu).

Vào đầu năm 1983, khi lấp sông Đà, người ta dồn dòng sông chảy xiết theo một kênh đào. Công việc xây dựng đang thực hiện theo tiến độ. Nhưng 2 năm trôi qua, trời mưa to ở thượng nguồn cách công trường hàng trăm ki-lô-mét, nước đổ về làm mực nước sông dâng cao tới mức báo động.

Những người công nhân xây dựng đã lập chiến công. Nước có nguy cơ làm vỡ đê quai và làm ngập hố móng. Điều đó xảy ra có nghĩa là phá huỷ hết tất cả những gì đã xây dựng trong 2 năm qua. Trận chiến đấu với dòng nước đã kéo dài 36 giờ, có những phút giây tưởng như bạc cả đầu.

Và lúc ấy, Tổng giám đốc công trường Ngô Xuân Lộc và Chuyên gia trưởng công trình P.Bô-ga-sen-cô lên ngay mặt đê quai, từ chỗ nguy hiểm này chỉ huy xe chạy. Nước liếm tới gót chân, những chiếc xe tải hạng năng trở đá, đất sét gạch vụn từ mỏ tiến gần vào. Những người thợ lái xe ủi, xe lu rải phẳng, nện chặt đường cố gắng bằng mọi giá vượt nhanh hơn mức nước đang đe doạ công trình...

Khi cán bộ thuỷ văn thông báo mực nước không dâng nữa thì mới có lệnh báo yên, mọi người mệt lử không lê bước nổi chân. Những chàng lái xe chợp mắt luôn trên cabin. Nhiều anh em công nhân, kỹ sư nằm lăn ra mặt đất đá vừa đổ xuống… Song, họ đã chiến thắng bằng ý chí, nghị lực để chế ngự sức mạnh của thiên nhiên.

Những kỹ sư Liên Xô và Việt Nam thi công gian máy tại Nhà máy thủy điện Hòa Bình.

…đến một “Học viện xây dựng thủy điện” trên sông Đà

Với đặc thù là công trình thủy điện được thiết kế ngầm trong lòng núi nên khi bắt đầu công việc dưới hầm (phòng máy đặt dưới hầm sâu trong núi) gặp rất nhiều khó khăn. Ban điều hành công trình đề xuất với Tổng Bí thư Lê Duẩn xin điều bộ đội tham gia xây dựng. Ngày 05/11/1980, Bộ Tổng tham mưu giao nhiệm vụ cho Đoàn 565 - Binh đoàn 12 tham gia thi công công trình thủy điện Hòa Bình. Sư đoàn 565 ngay sau đó thực hiện nhiệm vụ, điều khoảng 5.000 cán bộ, chiến sĩ lên công trường.

Các chuyên gia Liên Xô sẵn sàng trao đổi kiến thức với họ và xác định nhiệm vụ xây dựng công trình có quy mô lớn, nhiều hạng mục được triển khai đồng thời với nhiều ngành kỹ thuật, điều kiện thi công vô cùng phức tạp, tiến độ đòi hỏi khẩn trương theo các yêu cầu kỹ thuật, chất lượng nghiêm ngặt.

Những chiến sĩ trẻ bộ đội Trường Sơn tham gia thi công Nhà máy thủy điện Hoà Bình.

Trên công trình thủy điện Hoà Bình, vào lúc cao điểm nhất số công nhân làm việc lên đến 40.000 người, hầu hết là thanh niên tuổi đời còn rất trẻ. Đó là công nhân của hàng trăm chuyên ngành khác nhau. Đó là những kỹ sư công trình, kỹ thuật viên, kỹ sư cơ khí, lắp máy, công nhân xây dựng, lái xe...

Công tác đào tạo cán bộ xây dựng được tiến hành chủ yếu ở đội sản xuất hoặc ở nơi làm việc. Những cán bộ chuyên ngành tương lai được học ở Trường Trung cấp kỹ thuật thuộc Tổng công ty (nay là Trường Cao đẳng dạy nghề Việt Xô). Dần dần, Hoà Bình có khoa tại chức Trường Đại học Xây dựng Hà Nội. Có tới mấy trăm cán bộ trẻ đã học xong khoá này. Hơn 800 lao động tiên tiến có tay nghề đã trở thành đội trưởng đội sản xuất, 340 người trở thành đội trưởng công trình và thợ cả, có khoảng 100 người trở thành giám đốc, phó giám đốc công ty.

Một đội ngũ đông đảo như thế, những công nhân xây dựng có kinh nghiệm trưởng thành ngay trên công trường thuỷ điện Hoà Bình. Đã có nhiều chuyên gia so sánh Nhà máy thủy điện Hoà Bình trên sông Đà như “Học viện xây dựng thủy điện” của Việt Nam.

Và niềm niềm hạnh phúc của người thợ xây dựng làm ra “ánh điện sông Đà”

Sông Đà, ơi sông Đà!

Mùa xuân nay tới công trường vui ca
Tàu xe xuôi ngược xôn xao ghềnh đá
Quê em đất Mường xa

Về đây theo tiếng gọi sông Đà.

(Lời bài hát “Tiếng gọi sông Đà” - Trần Chung)

Không biết nhạc sĩ Trần Chung đã viết những lời ca để ca ngợi vẻ đẹp con người và công trình thủy điện thế kỷ từ khi nào, song với những người công nhân xây dựng thủy điện trên sông Đà, không chỉ là thưởng thức nhạc điệu vui tươi phấn khởi khi nghe tiếng hát mà chính họ đã hát lên khúc ca của tình yêu lao động, của niềm hạnh phúc vô biên khi đem đến cho sông Đà nguồn sống mới, để từ đó ánh điện tỏa đi khắp mọi miền đất nước.

Mỗi khi nhớ về dòng sông với công trình thuỷ điện, chúng tôi - những người sinh ra lớn lên tại nơi đây không thể quên những mốc thời gian công trình được hoàn thành. Đó là ngày 28/4/1986, hoàn thành công tác xây dựng - lắp ráp đường hầm số 1 và xây xong mặt trước của đập tràn dọc theo con đê xây dựng.

Quang cảnh ngăn sông Đà đợt 2, năm 1986 (Ảnh tư liệu)

Điều đó đóng vai trò quan trọng, khi vào cuối tháng 7 năm ấy nước sông Đà một lần nữa dâng cao. Lưu lượng nước trên sông lên tới 13.500 m3/giây, nhà máy phải trải qua thử thách lớn. Để kịp tiến độ công trình, chưa từng thấy tốc độ làm việc như thế bao giờ.

Giữa năm 1987, các công trình cơ bản của nhà máy thủy điện, trừ những trang thiết bị toàn bộ đặt ngầm trong lòng núi, đã sẵn sàng tiếp nhận cột nước. Một giai đoạn mới mở ra cực kỳ quan trọng trong tiến độ của công trường: chuẩn bị vận hành tổ máy thứ nhất. Tháng 11/1988, cả công trường hồi hộp chờ mong sự kiện này dự kiến vào cuối năm.

Nhớ lại thời khắc khi những công nhân xây dựng nhà máy thủy điện xuống gian hầm máy thấy nhấp nháy ánh đèn, nơi đặt tổ máy thứ nhất. Ở mặt bằng lắp ráp các chuyên gia Liên Xô và Việt Nam đang làm việc cùng nhau nhịp nhàng, chính xác. Các mệnh lệnh ngắn gọn bằng tiếng Nga và tiếng Việt, ra hiệu bằng tay cho các thợ lái cần cẩu một khối sắt thép khổng lồ của máy phát được đặt êm vào đúng vị trí.

Vào ngày 24/12/1988, tổ máy thứ nhất chạy không tải, sau khi chạy thử thành công ngày 31/12/1988 ngay trước thềm năm mới 1989, tổ máy đã đi vào vận hành chính thức đưa dòng điện vào sử dụng công nghiệp. Ngày 04/4/1994, chạy tổ máy cuối cùng - tổ máy thứ 8. Công trình được khánh thành trong niềm vui, ánh mắt, nụ cười và cả nước mắt hạnh phúc của bao thế hệ công nhân, chuyên gia, hai nước Việt Nam - Liên Xô.

Lễ cắt băng khánh thành Nhà máy thủy điện Hòa Bình vào năm 1994 sau khi lắp xong 8 tổ máy phát điện.

Kể từ khi Nhà máy Thủy điện Hoà Bình phát điện tổ máy số 8 - tổ máy cuối cùng - đến nay đã 30 năm. Nhà máy vẫn bền bỉ với tổ máy chạy để tạo nên nguồn “năng lượng trắng” cho đất nước. Dù ở ngay thành phố Hòa Bình nhưng mỗi lần ngắm “công trình thế kỷ” trên sông Đà, tôi thấy vẫn như xưa trông giống như ngày mới đưa vào sử dụng.

Sau 15 năm chính thức xây dựng, trải qua hành trình gian khó và tự hào với biết bao công sức của gần 5 vạn kỹ sư và công nhân xây dựng đã đem lại nguồn năng lượng lớn, tạo đà phát triển mạnh mẽ cho công cuộc đổi mới đất nước. Tài năng và công sức của họ là biểu tượng cho truyền thống yêu nước trong công cuộc xây dựng đất nước. Công trình Nhà máy thủy điện Hòa Bình xứng đáng là bản hùng ca của những “chàng Sơn Tinh” - người thợ Việt Nam - Liên Xô đã chinh phục thành công dòng sông Đà trong hành trình và khát vọng hướng tới tương lai.

Nhớ công trình thủy điện là nhớ những năm tháng dựng xây khó khăn vất vả, song chúng ta tự hào về một thế hệ Thanh niên Cộng sản của nhân dân hai nước với tình hữu nghị thủy chung đã tạo nên dòng điện sáng ngời cho Tổ quốc hôm nay và mai sau.

Bình luận