2021 - Hiệu quả từ chính sách điều hành linh hoạt
Mặc dù diễn bệnh Covid-19 diễn biến bất thường, nhưng với sự điều hành quyết liệt, linh hoạt của Chính phủ, sự chỉ đạo, lãnh đạo kịp thời của lãnh đạo Bộ Xây dựng, sự nỗ lực của toàn Ngành, năm 2021, ngành Xây dựng đã đạt được kết quả khá tích cực.
Giá trị tăng thêm của ngành Xây dựng tăng 0,2-0,5% so với cùng kỳ năm 2020. Chỉ số giá xây dựng tăng 4,34% so với cùng kỳ năm 2020. Chỉ số giá giao dịch một số loại bất động sản so với cùng năm trước tăng khoảng 3,1%. Diện tích nhà ở bình quân cả nước ước đạt 25 m2/người.
Về vật liệu xây dựng, ước tính sản lượng tiêu thụ một số vật liệu xây dựng chủ yếu năm 2021 so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó, xi măng tiêu thụ ước đạt khoảng 105,6 triệu tấn, tăng khoảng 2%; kính xây dựng khoảng 186 triệu m2, tăng khoảng 24%; sứ vệ sinh khoảng 16 triệu sản phẩm, tăng khoảng 7%; đá ốp lát khoảng 17 triệu m2, giảm khoảng 10%; gạch ốp lát khoảng 440 triệu m2, giảm khoảng 13%; vôi công nghiệp khoảng 2,3 triệu tấn, giảm khoảng 8%; tấm lợp amimăng khoảng 36 triệu m2, giảm khoảng 20%; gạch nung 18,4 tỷ viên, giảm khoảng 26%; gạch không nung 3,35 tỷ viên, giảm khoảng 33%...
Tỷ lệ đô thị hóa toàn quốc năm 2021 ước đạt 40,5%. Tỷ lệ dân cư khu vực thành thị được cung cấp nước sạch qua hệ thống cấp nước tập trung ước đạt 92% (tăng 2% so với cùng kỳ năm 2020).
Tỷ lệ thất thoát thất thu nước sạch giảm còn 17,2% (giảm 0,8% so với cùng kỳ năm 2020); tỷ lệ tổng lượng nước thải được thu gom và xử lý 15% (tăng 1% so với cùng kỳ năm 2020).
Để có được những kết quả trong bối cảnh đầy khó khăn như năm 2021, là do ngành Xây dựng đã có nhiều chính sách điều hành linh hoạt, kịp thời. Ngay sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP và Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2021, Bộ Xây dựng đã ban hành Chương trình hành động để triển khai với 13 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu và 74 nhiệm vụ (tại Quyết định số 63/QĐ-BXD ngày 19/01/2021)...
Đặc biệt, xác định rõ, nhiệm vụ đổi mới, hoàn thiện thể chế là một trong ba khâu đột phá chiến lược được xác định tại Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Bộ Xây dựng đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư các nguồn lực để kiểm soát tiến độ xây dựng, ban hành, nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thực thi pháp luật hiệu quả.
Bộ Xây dựng đã triển khai soạn thảo, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, đề án năm 2021, các nhiệm vụ chuyển tiếp năm 2020 và các nhiệm vụ theo chức năng, nhiệm vụ được giao: Đã được Chính phủ ban hành 8 Nghị định; Thủ tướng Chính phủ ban hành 7 Quyết định; 1 Chỉ thị; 2 nhiệm vụ đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận dừng thực hiện. Hoàn thiện, trình Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển vật liệu xây không nung tại Việt Nam đến năm 2030. Hoàn thiện hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Nhà ở (sửa đổi) và Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi); hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi) trình Chính phủ thông qua. Ban hành theo thẩm quyền 15 Thông tư.
Trong từng thời điểm dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, Bộ Xây dựng đã kịp thời tham mưu trình Chính phủ ban hành các giải pháp hỗ trợ ngành Xây dựng như trình Chính phủ ban hành các Nghị định về quản lý chi phí đầu tư xây dựng; quản lý phát triển vật liệu xây dựng; phát triển và quản lý phát triển nhà ở xã hội…
8 nhiệm vụ cần tập trung trong chỉ đạo, điều hành năm 2022
Đánh giá những kết quả mà ngành Xây dựng đã đạt được trong năm 2021, tại Hội nghị tổng kết năm 2021 và triển khai nhiệm vụ năm 2022 của ngành Xây dựng, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành cho rằng, trong điều kiện dịch bệnh ảnh hưởng lớn nhưng hầu hết các chỉ tiêu quản lý Ngành đều đạt và vượt kế hoạch đề ra. Đây là một kết quả ấn tượng!
Cơ bản đồng tình với các mục tiêu và 11 nhóm nhiệm vụ giải pháp Bộ Xây dựng đề ra, Phó Thủ tướng chỉ đạo, trong thời gian tới, Bộ Xây dựng cần tập trung vào một số nhiệm vụ:
Thứ nhất, Bộ tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đột phá về xây dựng thể chế chính sách. Rà soát các quy định của pháp luật, nhất là các Nghị định của Chính phủ, các Thông tư của Bộ đã ban hành để sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành với mục tiêu vừa bảo đảm vai trò quản lý nhà nước của Bộ nhưng đồng thời phân cấp, phân quyền mạnh mẽ hơn cho các ngành, các địa phương, đơn vị nhằm tạo môi trường thuận lợi, khơi thông nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, quản lý công tác quy hoạch xây dựng có chất lượng, định hướng phát triển cho từng ngành, từng địa phương cũng như cả nước; kiểm soát tốt quá trình quản lý thực hiện theo quy hoạch. Trong quản lý phát triển đô thị cần đặc biệt chú trọng vấn đề cảnh quan, các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội nhằm bảo đảm chất lượng, sự phát triển bền vững của đô thị gắn với cải thiện, nâng cao đời sống của nhân dân.
Thứ ba, Bộ Xây dựng tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm trong thực hiện quy hoạch, quản lý trật tự xây dựng, nhất là tại các đô thị và khu vực phát triển mới, các khu công nghiệp, cụm công nghiệp…
Thứ tư, Bộ Xây dựng xây dựng các đề án, chương trình, kế hoạch, hoạt động cụ thể để thực hiện Định hướng phát triển kiến trúc Việt Nam nhằm phát triển nền kiến trúc Việt Nam tiên tiến, hiện đại, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Triển khai thi hành hiệu quả Luật Kiến trúc; Xây dựng đội ngũ kiến trúc sư có tài năng, bản lĩnh, có khả năng thiết kế các công trình kiến trúc tiêu biểu, có giá trị cao.
Thứ năm, Bộ đôn đốc, hướng dẫn các địa phương thực hiện Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2030. Coi việc giải quyết nhu cầu về nhà ở cho nhân dân, trước hết là nhà ở cho người có công, người nghèo, công nhân trong các khu công nghiệp, cụm công nghiệp là một trụ cột của chính sách an sinh xã hội. Cần có cơ chế chính sách khuyến khích phát triển nhà ở xã hội, nhà ở thương mại bảo đảm có giá cả phù hợp với thu nhập của người dân.
Thứ sáu, bổ sung cơ chế chính sách, quy định, công cụ quản lý để kiểm soát chặt chẽ thị trường bất động sản, kiên quyết không để xảy ra tình trạng đầu cơ bất động sản. Tiếp tục tái cơ cấu thị trường bất động sản, cân đối cung cầu, sử dụng hiệu quả tài nguyên đất đai và nguồn lực đầu tư.
Thứ bảy, thực hiện tốt công tác thẩm định thiết kế, dự toán, cấp chứng chỉ hành nghề xây dựng, quản lý chi phí và kiểm soát chất lượng xây dựng công trình…
Thứ tám, rà soát, điều chỉnh kịp thời các công cụ quản lý đầu tư xây dựng (định mức, tiêu chuẩn, chỉ số giá...) phù hợp với thực tiễn hoạt động xây dựng nhằm khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong ngành Xây dựng đổi mới về thiết bị công nghệ, vật liệu xây dựng, biện pháp thi công, để từng bước hiện đại hóa ngành Xây dựng.
3 khâu đột phá
Tiếp thu những chỉ đạo từ Chính phủ, Bộ trưởng Nguyễn Thanh Nghị khẳng định, ngành Xây dựng nghiêm túc quán triệt, tiếp thu, có giải pháp và quyết tâm thực hiện hiệu quả cao nhất các chỉ đạo quan trọng của Phó Thủ tướng Chính phủ.
Nhận định năm 2022 tiếp tục có thuận lợi, nhưng cũng nhiều khó khăn, thách thức đặt ra cho ngành Xây dựng, Bộ trưởng cũng chỉ rõ một số nhiệm vụ, giải pháp trọng yếu:
Thứ nhất, quán triệt sâu sắc các chỉ đạo Chính phủ, lấy quyết tâm mới, nỗ lực mới thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, đoàn kết, thống nhất đi đôi với siết chặt kỷ cương, kỷ luật công tác, đạo đức công vụ, nâng cao tinh thần trách nhiệm, đổi mới tư duy, không được bảo thủ, trì trệ, tận tụy với công việc để hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ công tác năm 2022 của ngành Xây dựng.
Thứ hai, phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu. Lãnh đạo các đơn vị phải chăm lo, tạo điều kiện mọi mặt cho cán bộ công chức, viên chức, người lao động cống hiến, tạo sự đồng thuận, đoàn kết nội bộ, từ đó nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động của các cơ quan, đơn vị.
Thứ ba, quyết liệt, năng động, sáng tạo trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện các nhiệm vụ công tác của Bộ năm 2022; tăng cường đôn đốc, kiểm tra, xử lý kịp thời các trì trệ, vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Thứ tư, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong việc nghiên cứu, hình thành các công cụ quản lý, cơ chế chính sách mới để nâng cao về hiệu quả quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực quy hoạch - kiến trúc, hoạt động xây dựng, phát triển đô thị, hạ tầng kỹ thuật, nhà ở, bất động sản, vật liệu xây dựng, tái cơ cấu Ngành và doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp.
Thứ năm, các đơn vị có liên quan tiếp tục triển khai tăng cường quản lý Nhà nước về hoạt động đầu tư xây dựng, đảm bảo chất lượng công trình, an toàn vệ sinh lao động. Theo dõi tình hình sản xuất và thị trường vật liệu xây dựng; đảm bảo tiến độ lập quy hoạch thăm dò, khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng. Tăng cường nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ của ngành. Tiếp tục làm tốt công tác hợp tác quốc tế.
Các đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. Quản lý hoạt động và đầu tư sản xuất kinh doanh đúng pháp luật, đạt hiệu quả cao nhất. Thực hiện việc cổ phần hóa, thoái vốn đúng theo quy định, không làm thất thoát vốn, tài chính, tài sản nhà nước, tối đa hóa lợi ích nhà nước. Tiếp tục quan tâm chỉ đạo đầu tư công trong năm 2022 đảm bảo tiến độ, đúng quy định.
Thứ sáu, tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác phòng chống tham nhũng theo quy định và kế hoạch của Bộ.
Thứ bảy, tiếp tục đẩy mạnh triển khai các kế hoạch của Bộ về chuyển đổi số, cải cách thủ tục hành chính, xây dựng Chính phủ điện tử, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, tiêu chuẩn quản lý trong chỉ đạo, điều hành và thực hiện công vụ, phấn đấu cải thiện chỉ số xếp hạng về hành chính của Bộ. Các đơn vị và các địa phương lưu ý cải thiện chỉ số cấp phép xây dựng, tháo gỡ khó khăn, mắc trong thủ tục đầu tư xây dựng đảm bảo chặt chẽ, đúng quy định.
Thứ tám, tăng cường sự phối hợp thực chất giữa Bộ Xây dựng với các Bộ, ban, ngành, cơ quan Trung ương, chính quyền địa phương và các Sở Xây dựng, Sở Quy hoạch - Kiến trúc; tiếp tục mở rộng, tăng cường đối thoại giữa Bộ và các doanh nghiệp, các Hiệp hội và người dân; làm tốt công tác thông tin, truyền thông để tuyên truyền chính sách, pháp luật, tạo đồng thuận trong xây dựng và thự thi chính sách, pháp luật phát huy vai trò của các cơ quan truyền thông trong hoạt động của Bộ.
Thứ chín, bên cạnh tập trung cho công tác quản lý nhà nước, các đơn vị phải hết sức quan tâm công tác xây dựng Đảng, đoàn thể. Thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức hoạt động của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách…
Để thực hiện các nhiệm vụ đề ra, Bộ trưởng đặc biệt nhấn mạnh 3 khâu đột phá của ngành Xây dựng.
Đột phá thứ nhất là hoàn thiện thể chế pháp luật về xây dựng để tăng cường công tác quản lý nhà nước đồng thời tạo môi trường thuận lợi, thông thoáng, phân cấp mạnh cho địa phương.
Bộ trưởng lưu ý các đơn vị tập trung lập Hồ sơ đề xuất xây dựng một số Luật mới như: Luật Quản lý phát triển đô thị, Luật Cấp thoát nước, Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn, Luật Quản lý không gian ngầm và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan; nghiên cứu kỹ lưỡng, đề xuất các nội dung sửa đổi Luật Nhà ở năm 2014 và Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014.Bộ trưởng lưu ý: Trong quá trình xây dựng pháp luật phải đảm bảo nguyên tắc phù hợp với Hiến pháp và các chủ trương, Nghị quyết của Đảng; thống nhất, đồng bộ với văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, tránh chồng chéo; phù hợp với thực tiễn cuộc sống, đảm bảo tính khả thi; tuân thủ luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật; bảo đảm tiến độ, chất lượng; tăng cường phân cấp cho địa phương, đồng thời phải có công cụ đẩy mạnh kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực; đề cao trách nhiệm người đứng đầu đơn vị trong công tác xây dựng pháp luật.
Một số chỉ tiêu năm 2022 - Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất xây dựng ước 4,96 - 5,56%. - Diện tích nhà ở bình quân cả nước phấn đấu đạt 25,5 m2/người. - Tỷ lệ đô thị hóa toàn quốc đạt 41,5 - 42% (Chỉ tiêu được Quốc hội giao tại Nghị quyết số 32/2021/QH15). - Tỷ lệ người dân đô thị được cung cấp nước sạch qua hệ thống cấp nước tập trung trên 94%. - Tỷ lệ thất thoát thất thu nước sạch giảm dưới 16,5%. - Tỷ lệ tổng lượng nước thải được thu gom và xử lý đạt 16% |
Đột phá thứ hai, tập trung cho công tác quy hoạch, quản lý phát triển đô thị. Cụ thể: Nâng cao chất lượng công tác lập quy hoạch, đảm bảo tầm nhìn, dự báo và tính khả thi; kiểm soát chặt chẽ công tác thẩm định quy hoạch, điều chỉnh quy hoạch; tăng cường kiểm tra, hướng dẫn, chấn chỉnh địa phương về công tác quy hoạch.
Đột phá thứ ba, đẩy mạnh công tác quản lý phát triển nhà ở, thị trường bất động sản, nhất là tập trung phát triển nhà ở xã hội, nhà cho phân khúc thu nhập thấp, thu nhập trung bình. Các đơn vị thuộc Bộ tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các quy định pháp luật, công cụ quản lý để kiểm soát chặt chẽ quá trình phát triển đô thị đồng bộ, gắn kết với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nông thôn.
Thực hiện cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ, tăng cường quản lý đảm bảo thị trường bất động sản phát triển ổn định, bền vững.
Xác định rõ những mục tiêu lớn đến năm 2025
Không chỉ xây dựng kế hoạch cho năm kế tiếp, ngành Xây dựng cũng đã ban hành Chương trình hành động, xác định rõ các nội dung cần được thể chế hóa, cụ thể hóa và đạt kết quả cụ thể trong giai đoạn 2021 - 2025.
Đây là căn cứ để các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ Xây dựng, các cơ quan quản lý nhà nước ngành Xây dựng tại địa phương, các doanh nghiệp trong toàn Ngành tiến hành xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình hành động của đơn vị theo chức năng, nhiệm vụ được giao để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể của ngành Xây dựng của cơ quan, đơn vị trong giai đoạn 2021 - 2025.
Theo đó, ngành Xây dựng xác định rõ 5 mục tiêu và những chỉ tiêu cụ thể.
Thứ nhất, nâng cao năng lực thiết kế, thi công xây lắp, quản lý xây dựng theo hướng tiên tiến, hiện đại, từng bước mở rộng sự tham gia của các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam ở nước ngoài. Rà soát, hoàn thiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật, đơn giá xây dựng, suất đầu tư xây dựng công trình phục vụ các ngành kinh tế. Phát triển các vật liệu xây dựng mới, thông minh, tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường, trong đó ưu tiên phát triển những công nghệ tiên tiến, hiện đại, mức độ tự động hóa cao sử dụng tối đa công nghệ số, công nghệ nano, vật liệu không nung, sử dụng nhiên liệu tái chế, các loại chất thải để sản xuất các sản phẩm chất lượng cao.
Hai là, đổi mới mạnh mẽ và nâng cao chất lượng quy hoạch đô thị, hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn, định mức, đơn giá về quy hoạch và đầu tư xây dựng đô thị theo hướng phát triển đô thị thông minh, xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu, sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên và nguồn lực, hài hòa giữa bảo tồn và phát triển. Xây dựng và triển khai thực hiện quy hoạch phát triển đô thị và nông thôn quốc gia. Phấn đấu có ít nhất ba đô thị thông minh tại 3 vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, phía Nam và miền Trung. Tập trung đầu tư và đẩy nhanh tiến độ các công trình đầu mối về cấp nước, thoát nước, xử lý nước thải, rác thải, giảm đáng kể tình trạng ùn tắc giao thông, ngập nước tại các đô thị lớn.
Ba là, tiếp tục thực hiện tái cơ cấu thị trường bất động sản, tiến tới vận hành thị trường bất động sản theo chuẩn mực của nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập quốc tế. Phát triển và mở rộng các loại hình nhà ở; đẩy mạnh phát triển nhà ở công nhân; nhà ở xã hội cho thuê, nhà ở giá rẻ; tạo điều kiện khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển nhà ở theo cơ chế thị trường cho các đối tượng chính sách xã hội.
Bốn là, kết hợp hài hòa giữa giải quyết các vấn đề cấp bách với các vấn đề cơ bản, dài hạn. Phối hợp thực hiện đồng bộ các giải pháp, khắc phục có hiệu quả tác động của đại dịch Covid-19, nhanh chóng phục hồi và phát triển các lĩnh vực thuộc ngành Xây dựng. Gắn kết phát triển Ngành với củng cố quốc phòng, an ninh, hội nhập quốc tế, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Năm là, xây dựng bộ máy ngành Xây dựng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và tăng cường phân công, phân cấp một cách hợp lý, bảo đảm sự quản lý thống nhất, chỉ đạo thông suốt từ trung ương đến địa phương, phát huy sự chủ động, sáng tạo của địa phương. Tập trung đào tao, phát triển nhân lực ngành Xây dựng đáp ứng yêu cầu mới, gắn kết chặt chẽ với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và học tập, làm theo gương đạo đức Hồ Chí Minh. Phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, tích cực của các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân trong toàn ngành Xây dựng.
Kế hoạch trên cũng đặt ra một số chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2025. Cụ thể, tốc độ tăng trưởng bình quân 6 - 8%/năm. Trong đó, về quy hoạch: duy trì tỷ lệ 100% phủ kín quy hoạch chung đô thị; Quy hoạch xây dựng nông thôn: 100% xã thuộc huyện đạt tiêu chuẩn nông thôn mới được lập, phê duyệt quy hoạch chung xây dựng xã và thực hiện quản lý theo quy hoạch được duyệt.
Quy hoạch chung đô thị được lồng ghép các mục tiêu tăng trưởng xanh và biến đổi khí hậu: Hoàn thành đối với đô thị loại II, III. Tỷ lệ đô thị hóa đạt khoảng 45%.
Đáng chú ý, các chỉ tiêu về hạ tầng: tỷ lệ người dân đô thị được cung cấp nước sạch qua hệ thống cấp nước tập trung đạt 95 - 100%; Tỷ lệ hệ thống cấp nước đô thị lập và thực hiện kế hoạch cấp nước an toàn đến năm 2025 đạt 75%; Tỷ lệ thất thoát thất thu nước sạch tại các đô thị dưới 15%; Tỷ lệ thu gom nước thải đạt khoảng 70%.
Tỷ lệ nước thải sinh hoạt được xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn tại các đô thị loại II trở lên đạt khoảng 30 - 35% và tại các đô thị loại III, IV, V đạt khoảng 15 - 20%; phạm vi phục vụ của hệ thống thoát nước mưa tại đô thị đạt 70%; tỷ lệ đất giao thông trên đất xây dựng tại các đô thị lớn đạt 11 - 13%; tỷ lệ đất dành cho bến bãi đỗ xe đạt 1%; tỷ lệ vận tải hành khách công cộng đạt 15 - 20%; tỷ lệ sử dụng hình thức hỏa táng tại các đô thị đặc biệt đạt 75%, các đô thị loại I trung bình khoảng 20%, các đô thị còn lại trung bình đạt 15%; tỷ lệ chiếu sáng sử dụng nguồn sáng tiết kiệm năng lượng tại các đô thị lớn đạt 20 - 30%.
Đặc biệt, theo kế hoạch cũng nêu rõ các chỉ tiêu về nhà ở: Diện tích nhà ở bình quân toàn quốc đạt khoảng 27 m2 sàn/ người. Trong đó, diện tích nhà ở bình quân đầu người khu vực đô thị đạt khoảng 28 m2 sàn/người; diện tích nhà ở bình quân đầu người khu vực nông thôn đạt khoảng 26 m2 sàn/ người; tỷ lệ dân số sống trong nhà ở đơn sơ 1%.
17 chương trình, đề án cần triển khai từ nay đến 2025 Theo Chương trình hành động của ngành Xây dựng, có 17 chương trình, đề án cần triển khai từ nay đến năm 2025: Luật Quản lý phát triển đô thị; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bất động sản; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Nhà ở; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng; Luật Cấp, thoát nước; Luật Quản lý không gian ngầm; Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn; Tổng kết tình hình thực hiện, rà soát sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 1210/NQ-UBTVQH13 ngày 25/5/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về phân loại đô thị; Chiến lược phát triển ngành Xây dựng đến năm 2030; Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản làm vật liệu xây dựng thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Chiến lược phát triển nhà ở Quốc gia giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2040; Quy hoạch hệ thống đô thị và nông thôn quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn 2050; Đề án Hoàn thiện hệ thống định mức và giá xây dựng - giai đoạn 2; Đề án phát triển công trình xanh đến năm 2030; Đề án thống nhất quản lý nhà nước về cấp nước đô thị và nông thôn, xây dựng cơ chế quản lý cấp nước liên vùng; Định hướng phát triển không gian xây dựng ngầm đô thị; Chiến lược phát triển khoa học công nghệ ngành Xây dựng giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2045. |