Xanh hóa ngành Xây dựng  để Việt Nam tăng trưởng kinh tế carbon thấp

Là một trong số những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi BĐKH và là một trong những quốc gia có tốc độ gia tăng phát thải khí nhà kính cao nhất trên thế giới, Việt Nam có nguy cơ sẽ phải đối mặt với khủng hoảng khí hậu.

Tại Hội nghị Thượng đỉnh về Khí hậu của Liên Hợp quốc COP26 tháng 11/2021, Việt Nam đã cam kết đưa tổng lượng phát thải khí nhà kính (KNK) về "0" vào năm 2050. Để thực hiện mục tiêu này, đẩy mạnh hiệu quả sử dụng năng lượng đóng vai trò quan trọng do sản xuất năng lượng là một trong những ngành có mức phát thải KNK lớn trong nền kinh tế.

Khoảng một phần ba tổng lượng điện tiêu thụ của Việt Nam được sử dụng trong xây dựng và duy trì hoạt động trong các tòa nhà, góp phần khiến nhu cầu điện ở Việt Nam luôn gia tăng ở mức hai con số kể từ năm 2000.

Chính phủ Việt Nam đã nhận ra sự cấp thiết phải xanh hóa ngành Xây dựng trong khuôn khổ chương trình tổng thể về giảm thiểu biến đổi khí hậu (BĐKH). Với khoảng 100 triệu m2 diện tích sàn mỗi năm được xây dựng để đáp ứng tốc độ đô thị hóa nhanh và mức thu nhập tăng, phát triển các công trình xanh sẽ góp phần giúp Việt Nam đạt được các mục tiêu về khí hậu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế carbon thấp trong nhiều năm tới.

Dự án nhà ở phân khúc bình dân HausBelo của EZ Land đã chứng minh bài toán kinh doanh của công trình xanh.

Tiềm năng này đã được Chính phủ Việt Nam bước đầu hiện thực hóa khi Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia về các công trình xây dựng sử dụng năng lượng hiệu quả được ban hành vào năm 2013. Kể từ đó, các yếu tố hiệu quả năng lượng được áp dụng đã giúp giảm khoảng 130.000 tấn CO2 phát thải mỗi năm, tương đương với khoản tiết kiệm hàng năm khoảng 28 triệu USD cho các chủ sở hữu công trình. Các chủ đầu tư tư nhân cũng theo sát với những nỗ lực áp dụng các chứng chỉ công trình xanh như EDGE của IFC, một hệ thống đánh giá hiệu quả sử dụng tài nguyên cho công trình xây dựng được thiết kế phù hợp với các thị trường mới nổi.

Tuy việc phát triển công trình xanh tại Việt Nam còn ở giai đoạn khởi đầu với chỉ khoảng 2% diện tích sàn xây mới hàng năm được cấp chứng nhận xanh nhưng đang cho thấy mức tăng trưởng rõ rệt. Tốc độ tăng trưởng công trình xanh khoảng 55%/năm trong giai đoạn 2014-2020 và đã có 201 công trình xanh với tổng diện tích sàn 5,3 triệu m2 vào tháng 9/2021 so với mức 127.500 m2 sàn năm 2013. 

Vậy, đâu là chìa khóa để mở rộng thị trường công trình xanh tại Việt Nam? 

Kinh nghiệm từ các thị trường mới nổi cho thấy cần thiết phải có kế hoạch tổng thể quốc gia về xanh hóa ngành Xây dựng với các mục tiêu cụ thể, tiêu chuẩn và yêu cầu nhất quán, hướng dẫn và giải pháp chi tiết, cùng các chính sách ưu đãi cần thiết. Kế hoạch này là điều kiện tiên quyết để loại bỏ các rào cản liên quan và thúc đẩy áp dụng hoạt động xây dựng xanh một cách rộng rãi.

Trên thực tế, Việt Nam có nhiều cơ hội để chuyển đổi toàn bộ ngành Xây dựng theo hướng xanh nếu kết hợp các hỗ trợ của Chính phủ với việc tận dụng các nguồn lực tư nhân. Các thay đổi về quy định như năm 2013 kể trên có thể tạo động lực.

Tại Colombia, thị phần công trình xanh tăng từ 0% lên 20% trong chỉ 4 năm kể từ khi Chính phủ nước này áp dụng Quy chuẩn công trình xanh vào năm 2015, đồng thời đưa ra các ưu đãi về thuế đối với các giải pháp như vật liệu cách nhiệt và điều hòa không khí tiết kiệm năng lượng. Hành động của Chính phủ đã tạo động lực và khuyến khích hai ngân hàng thương mại như Bancolombia và Davivienda đưa ra các chương trình tài chính xây dựng xanh cho nhà ở xây mới. Các chương trình này bao gồm các khoản cho vay với lãi suất thấp hơn tới hai phần trăm so với lãi suất thị trường dành cho các nhà phát triển xanh và các khoản chiết khấu cho người mua nhà. Hiện đã có 05 ngân hàng thương mại cung cấp các khoản vay xanh ở Colombia.

Ngoài các chính sách cấp quốc gia, quy định của địa phương cũng có vai trò quan trọng. Chính sách khuyến khích phi tài chính của chính quyền quận San Borja, một khu dân cư ở Thủ đô Lima, cho phép chủ đầu tư bất động sản được tăng tầng cao, nếu công trình chung cư được cấp chứng nhận xanh. Sắc lệnh này đưa đến chuỗi lợi ích khi các chủ đầu tư bán được nhiều căn hộ hơn, chính quyền thu thuế nhiều hơn và người mua nhà hưởng lợi từ việc giảm tiền hóa đơn điện nước. Hiện tại, đã có 10 chính quyền cấp thành phố tại Peru áp dụng sắc lệnh tương tự.

Chính phủ cũng có thể thể hiện vai trò lãnh đạo qua việc áp dụng các tiêu chuẩn công trình xanh cho chính công trình vốn nhà nước. Tại Mỹ, chính quyền các tiểu bang thiết lập mục tiêu bắt buộc về tiết kiệm năng lượng cho các công trình công kể cả cũ và mới, đồng thời xây dựng đường sử dụng năng lượng chuẩn thông qua các công cụ được thiết kế riêng hoặc sẵn có trên thị trường. Các mục tiêu này giúp giảm sử dụng năng lượng và tiết kiệm chi phí vận hành, vốn chiếm tới 10% ngân sách hoạt động hàng năm của chính quyền. Tại Việt Nam, công cụ EDGE có thể hỗ trợ việc xác định mục tiêu.

Việc đưa các chỉ định xanh vào quy định mua sắm công đã được triển khai thành công ở Kenya. Đây là mô hình hợp tác công tư, trong đó Bộ Nhà ở và phát triển đô thị cung cấp đất miễn phí cho các nhà phát triển nhà ở xã hội xanh. Mô hình chứng minh rằng xây dựng xanh mang lại hiệu quả kinh tế cho các chủ đầu tư cũng như lợi ích lâu dài cho người mua nhà.

Một số ví dụ về các chính sách khuyến khích tại các thị trường đang phát triển khác như: Thành phố Takoradi tại Ghana giảm 30% phí cấp phép cho công trình xanh; Thành phố Salvador tại Brazil thiết lập hệ thống tính điểm để được miễn giảm tới 10% thuế bất động sản; hay Thành phố Pune cho phép xây thêm 3 - 7% diện tích sàn nếu dự án đạt mức tiết kiệm năng lượng, nước và vật liệu từ 30 - 50%.

Nguồn tài chính xanh cũng rất cần thiết để mở rộng quy mô công trình xanh và các chính sách cũng cần phải tính đến việc huy động nguồn vốn ưu đãi. Nguồn vốn này sẽ giúp chủ đầu tư vượt qua rào cản về chi phí đầu tư ban đầu thường có thể tăng thêm khoảng 1 - 3% tổng chi phí dự án, ngoài việc các khoản tiết kiệm chi phí vận hành tòa nhà có thể giúp chi trả cho các khoản vay. Một cách thức để thực hiện là đưa công trình xanh và cơ sở hạ tầng bền vững vào hệ thống phân loại tài chính xanh và hướng dẫn các ngân hàng thực hiện theo dõi.

Hệ thống phân loại xanh có thể giúp các ngân hàng xác định rủi ro trước các chuyển đổi liên quan đến vấn đề môi trường và khí hậu như các thay đổi về chính sách, quy định bắt buộc hay thị hiếu khách hàng thay đổi.

Song song, các hệ thống này cũng khuyến khích các ngân hàng chuyển hướng đầu tư vào các dự án xanh và mở rộng danh mục đầu tư xanh. Theo một báo cáo của IFC, công trình xanh là một trong những cơ hội đầu tư lớn nhất trong thập kỷ tới ở châu Á - Thái Bình Dương, dự báo lên tới 16 nghìn tỷ USD. Đồng thời, cơ hội này sẽ giúp thu hút đầu tư quốc tế vào các thị trường này hơn bao giờ hết.

Với Việt Nam, công trình xanh đóng vai trò bản lề trong việc giải quyết những yêu cầu cấp bách về hạ tầng và thách thức về biến đổi khí hậu, cùng lúc với việc phát triển nền kinh tế carbon thấp. Chính quyền quốc gia và địa phương có thể kiến tạo những điều kiện thích hợp để phát triển thị trường công trình xanh. Đây cũng là tiền đề quan trọng góp phần giúp Việt Nam đạt được các mục tiêu phát thải nhằm giảm tác động của BĐKH toàn cầu.

Bình luận
Công ty CP Sao Băng Việt Nam Tổng công ty Xây dựng số 1 Công ty Xe đạp Thống Nhất Công ty vcc