Đây cũng là một trong 3 nội dung cốt lõi (quản lý nhà nước về ĐTXD, quy hoạch phát triển đô thị và nông thôn, nhà ở và thị trường BĐS) được Thứ trưởng Lê Quang Hùng nêu lên để thảo luận trong Hội nghị sơ kết công tác quý I/2022 của Bộ Xây dựng.
Tìm giải pháp bảo đảm tiến độ dự án
Theo Nghị quyết số 29/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội, tổng số kế hoạch vốn đầu tư trung hạn nguồn NSTW giai đoạn 2021-2025 hơn 183.252 tỷ đồng cho các dự án: Dự án đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông (giai đoạn 1); dự án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư Cảng hàng không quốc tế Long Thành; dự án hồ chứa nước Ka Pét, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận; dự án đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025; các dự án đường bộ cao tốc, dự án trọng điểm khác dự kiến thực hiện trong giai đoạn 2021-2025.
Bên cạnh đó, Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 của Quốc hội tăng chi đầu tư phát triển từ nguồn ngân sách nhà nước tập trung trong 02 năm 2022 và 2023 đối với lĩnh vực hạ tầng bổ sung 113.550 tỷ đồng.
Như vậy, đầu tư công cho lĩnh vực xây dựng trong giai đoạn 2022-2024 rất lớn. Thứ trưởng Lê Quang Hùng đặt ra vấn đề về vị trí, vai trò của Bộ Xây dựng trong bảo đảm cơ chế, chính sách thông thoáng cho các hoạt động ĐTXD, trong đó có những điểm “nóng” về quản lý chi phí ĐTXD, hợp đồng xây dựng.
Ông Đàm Đức Biên - Cục trưởng Cục Kinh tế xây dựng cho biết, nắm bắt tình hình ngành Xây dựng đã chịu ảnh hưởng tiêu cực của dịch bệnh Covid-19 cũng như biến động giá VLXD tăng cao từ thời điểm năm 2020, Cục Kinh tế xây dựng thường xuyên theo dõi sát biến động thị trường, kịp thời tham mưu cho lãnh đạo Bộ. Trong đó, Cục đã trình Bộ trưởng ban hành Văn bản số 1545/BXD-KTXD ngày 10/5/2021 về thực hiện các giải pháp để giảm thiểu tác động tiêu cực của dịch Covid-19 và biến động giá thép đến các hoạt động xây dựng, đôn đốc các địa phương công bố giá xây dựng với tần suất dày hơn theo hướng dẫn của Nghị định số 10/2021/NĐ-CP về quản lý chi phí ĐTXD.

Qua theo dõi tình hình, Cục Kinh tế xây dựng đã nắm bắt một số vấn đề lớn có vướng mắc, bất cập như: định mức, chỉ số giá xây dựng, hợp đồng xây dựng. Cục đang tập hợp các phản ánh, kiến nghị của doanh nghiệp, để báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Trong thời gian ngắn sắp tới, Cục sẽ làm việc trực tiếp với Bộ GTVT, các địa phương, các hội nghề nghiệp để nghe các ý kiến phản ánh về những bất cập trong quá trình triển khai các dự án ĐTXD.
Trong thời gian vừa qua, Tổ công tác thị trường thuộc Bộ Xây dựng do Cục Kinh tế xây dựng là cơ quan thường trực, có sự phối hợp, tham gia của Viện Kinh tế xây dựng, Viện Vật liệu xây dựng, Cục Quản lý nhà và thị trường BĐS, đã đi vào hoạt động với nhiệm vụ theo sát thị trường BĐS, thị trường VLXD cũng như giá các mặt hàng liên quan đến hoạt động ĐTXD để có các giải pháp chống đầu cơ, tăng giá.
Ông Đàm Đức Biên khuyến nghị vấn đề trách nhiệm của các bộ ngành, địa phương đối với việc bảo đảm tiến độ các dự án đầu tư công. Cụ thể, qua tính toán sơ bộ của Cục Kinh tế xây dựng, tại thời điểm thị trường chưa có biến động, dự phòng do trượt giá của hầu hết các dự án chỉ xoay quanh 3%, nhưng với mức độ biến động giá tại thời điểm hiện nay trên dưới 10% thì dự phòng cho trượt giá không có khả năng đáp ứng. Do đó, hầu hết các dự án triển khai có nguy cơ vượt tổng mức dự toán. Như vậy, trong trường hợp cần thiết, có thể cắt giảm các hạng mục không cần thiết hoặc triển khai ngay các thủ tục điều chỉnh chủ trương đầu tư để bảo đảm không ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện các dự án.
Không thiếu nguồn cung VLXD
Đối với lĩnh vực VLXD, ông Phạm Văn Bắc - Vụ trưởng Vụ VLXD cho biết, sản lượng sản xuất các sản phẩm xi măng, gạch, đá xây dựng, gạch ốp lát, kính xây dựng không thiếu, thậm chí năm 2021 có tăng trưởng hơn so với năm 2020. Các sản phẩm VLXD nhập khẩu đa phần là các sản phẩm trang trí thì doanh nghiệp trong nước cũng sản xuất được nên cũng không thiếu ngay cả khi logistics tăng lên, hạn chế nhập khẩu.
Hiện nay có thể thiếu một số loại VLXD như đất san lấp, đá làm VLXD thông thường tại một số công trình trọng điểm do có nhu cầu đột biến tại một số thị trường, một số vị trí, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thiếu vật liệu do công tác cấp phép khai thác mỏ phức tạp, kéo dài. Tuy nhiên, đối với vùng ĐBSCL, do nguồn cung hạn chế nên luôn thiếu vật liệu. Những năm qua, Bộ Xây dựng đã triển khai nhiều giải pháp nghiên cứu, phát triển VLXD phục vụ cho các công trình tại địa bàn này. Trong đó, vật liệu đắp đường hiện có 02 giải pháp, thứ nhất tận dụng chất thải của các nhà máy nhiệt điện là tro xỉ thạch cao, hiện đã có tiêu chuẩn TCVN 12249:2018 về tro xỉ nhiệt điện đốt than dùng cho san lấp. Thứ hai, gần đây có một số địa phương đã khảo sát sử dụng cát khu vực ven biển để làm vật liệu san lấp.

Thứ trưởng Lê Quang Hùng đánh giá, riêng vùng ĐBSCL, vật liệu đất đắp thiếu rất nhiều vì không có trữ lượng, thiếu ít nhất vài chục triệu m3. Hiện nay, đang có hướng nghiên cứu đưa cát biển vào san lấp bởi nếu sử dụng cát sông, đất để đắp đường thì chi phí rất cao, thời gian kéo dài và cũng không thể đáp ứng được nhu cầu về khối lượng lớn. Đề nghị cơ quan chuyên môn của Bộ Xây dựng tiếp tục rà soát, nghiên cứu để tham mưu cho lãnh đạo Bộ.
Nhân lực cho kiểm tra, giám sát chất lượng công trình
Thứ trưởng Lê Quang Hùng tiếp tục đặt vấn đề đối với việc kiểm tra, giám sát bảo đảm chất lượng công trình. Trước đây, mỗi năm xây dựng 200 - 300km đường cao tốc, hiện nay phải làm 400 - 500km đường cao tốc trong thời gian ngắn đến năm 2025, làm nhiều và thời gian thi công nhanh, đặt ra không ít vấn đề liên quan đến chất lượng công trình.
Ông Phạm Minh Hà - Cục trưởng Cục Giám định nhà nước về chất lượng công trình xây dựng cho biết, qua công tác kiểm tra của Hội đồng kiểm tra nhà nước về công tác nghiệm thu công trình xây dựng tại các dự án giao thông trọng điểm, đặc biệt là đường cao tốc thời gian vừa qua cho thấy, số lượng các công trình đường cao tốc được xây dựng và chiều dài các đoạn tuyến còn hạn chế. Tuy nhiên, trong nhiệm kỳ này, theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ sẽ đẩy mạnh đầu tư công trong đó tập trung xây dựng các dự án giao thông trọng điểm, đặc biệt là các công trình đường cao tốc có tầm quan trọng và có mức độ phức tạp rất cao, chủ yếu do Bộ GTVT chỉ đạo triển khai các dự án lớn, chỉ có một số rất ít các dự án cao tốc có quy mô hạn chế do UBND các tỉnh thực hiện.
Từ thực tế này đặt ra các vấn đề về chi phí, vật tư, vật liệu, nhân lực, thiết bị. Trong đó, đối với các nhà thầu, đặc biệt là nhà thầu thi công xây dựng sẽ gặp các khó khăn nhất định về nguồn nhân lực, trang thiết bị… do triển khai với quy mô rộng, khắp cả nước. Ngoài ra, cũng sẽ dẫn đến các vấn đề về năng lực của tư vấn quản lý dự án và các bên liên quan trong bảo đảm chất lượng công trình.
Ông Phạm Minh Hà đánh giá, chất lượng của đường cao tốc do nhà thầu Việt Nam đảm nhận trong những năm vừa qua có sự cải thiện, đã tự làm nhiều dự án. Các nhà thầu Việt Nam hoàn toàn có thể đảm đương khối lượng lớn các dự án nếu có sự quan tâm, sâu sát trong chỉ đạo thực hiện của các cấp, đặc biệt là các bộ ngành có liên quan, trong đó có Bộ Xây dựng, đặc biệt là tập trung tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về chính sách, vật liệu, giá xây dựng, các vấn đề về kỹ thuật xử lý chất lượng công trình. Tuy nhiên, mặc dù thực tế chứng minh các đội ngũ chuyên gia có nhiều kinh nghiệm xử lý các vấn đề kỹ thuật về thiết kế, xử lý trong quá trình thi công, nhưng với số lượng công trình nhiều, phức tạp thì sẽ thiếu chuyên gia do vấn đề phải xử lý sẽ nhiều lên.
Trước tình hình triển khai ĐTXD các dự án đầu tư công, đặc biệt là dự án cao tốc Bắc - Nam phía Đông, Cục Giám định nhà nước về chất lượng công trình xây dựng đã trao đổi với các cơ quan chức năng, báo cáo lãnh đạo Bộ và các chuyên gia, để có cách tiếp cận, các giải pháp phù hợp nhằm tăng cường công tác kiểm tra, giám sát bảo đảm chất lượng công trình.